Bài của Đường Hải Lan
Bà Hewlett đã dành hầu hết thời gian để viết và giaœng dạy về sự cần thiết cuœa chính phuœ và ngành kinh doanh phát triển nhiều hơn nữa những nơi làm việc có tính cách thân thiện-gia đình, bà đã tốt nghiệp bằng tiến sĩ kinh tế từ đại học Harvard. Và bà đã có các đứa con rồi mất chúng và rồi lại cố gắng để có thêm nữa. Khi còn là một giáo sư rất treœ bà đã có một đứa con chập chững biết đi, rồi mất hai đứa con sinh đôi khi đã được sáu tháng trong bụng. Tuy thế bà Hewlett rất may mắn, có thêm ba đứa con nữa, gồm bé Emma ra đời khi bà đã 51 tuổi với trứng hiến tặng và sự điều trị. Bà Hewlett rất hiểu sự "khao khát có con" cuœa nhiều người.
Ít nhất bà Hewlett hiểu lòng khao khát này đối với phụ nữ. Bà tranh luận đàn ông có một lợi thế bất công: "Ngày nay, theo kinh nghiệm dường như là các phụ nữ càng thành công thì càng khó lấy chồng hoặc sinh một đứa con. Riêng đối với nam giới thì điều này trái ngược. Tôi nhận thấy rằng chỉ một phần tư những người đàn ông có nghề chuyên môn cao cuối cùng không có con. Nam giới thường nhận thấy nếu họ thành công, mọi thứ khác sẽ một cách tự nhiên theo sau."
Nhưng quan điểm này không hoàn toàn công bằng đối với các thưœ thách mà đàn ông cũng phaœi đương đầu. Nam giới cũng làm việc quá mệt nhọc hơn bao giờ hết, và toa thuốc cuœa bà Hewlett rằng nữ giới cần nghĩ đến việc có con sớm hơn làm nhiều đàn ông trơœ thành trụ cột gia đình. Họ sẽ trơœ thành các người cha sinh con, nhưng không có nhiều cơ hội để là người cha tốt. Ông Adamson thuộc trường đại học Harvard thú nhận rằng: "Rất nhiều bạn bè cuœa tôi là những người đàn ông có gia đình giờ đây đã ly dị. Khi bạn hoœi họ điều gì đã xaœy ra, đại đa số sẽ traœ lời 'Ồi, tôi chẳng bao giờ ơœ nhà. Tôi làm việc suốt thời gian, không mấy khi dành sự quan tâm đến gia đình tôi. Ước gì tôi đã có thể dành nhiều thời giờ cho đời sống gia đình, nhưng giờ đây đã quá trễ."
Tuy thế bà Hewlett vẫn quaœ quyết rằng nam giới không đối phó cùng các sự "chọn lựa khắc nghiệt" mà phụ nữ đương đầu. Bà tranh luận: "Những người đàn ông nhận thấy họ không có mối quan hệ tốt với các đứa con trươœng thành ít nhất ông ta cũng còn có cơ hội thứ nhì bơœi là các ông nội. Riêng đối với phụ nữ, sự không có con thể hiện một sự mất mát kéo dài vào tương lai. Nó có nghĩa là không có con và đương nhiên không có cháu nội cháu ngoại." Trong khi các cuốn sách trước đầy ắp các nguyên tắc cho người khác sống theo. Cuốn sách này có tính cách cá nhân nhiều hơn. Bà đã cho thêm gia vị vào cuốn sách bằng những chuyện có tính cách khuyên răn như: phụ nữ có cách ứng xưœ gần như đe dọa những người đàn ông mà họ hẹn hò, quá thành công và bận rộn, theo đuổi quá mức chỉ thích hợp với những ai tìm kiếm người săn sóc. Lời văn đáng tin cậy nhưng có xu hướng chọn lựa cẩn thận, và khiến người đọc nghĩ tác giaœ kêu gọi phụ nữ nên dành nhiều thời giờ ơœ nhà, nơi mà chức năng làm mẹ đến trước mọi vai trò khác.
Trước những lời phê bình này bà Hewlett traœ lời rằng bà chỉ đang cố gắng giúp phụ nữ có những sự chọn lựa khôn ngoan nhất dựa trên nguồn thông tin tốt nhất. Bà không đề nghị sự trơœ lại với thập niên 1950, hoặc gợi ý rằng phụ nữ nên theo đuổi sự học cho đến khi đạt được bằng cấp, và rồi cố gắng có con ngay sau khi tốt nghiệp. Bà đề nghị rằng phụ nữ nên đạt được bằng cưœ nhân, làm việc tận lực trong công việc đầu tiên - nhưng rồi chuẩn bị để bình ổn trong một thời gian và chuyển hướng nguồn năng lực vào đời sống riêng tư cuœa họ, với ý định sẽ bắt kịp con đường nghề nghiệp sau này. Nói một cách khác là bạn có một số sự nhượng bộ trong sự nghiệp. Nhưng bạn sẽ bắt kịp khi thời điểm thích hợp.
Tuy nhiên có vấn đề là trong cuốn sách cuœa bà Hewlett tất caœ các ví dụ về những phụ nữ thành công đều đã có gia đình và sinh con trong tuổi 20. Các phụ nữ này có thể đã thoát được số phận cuœa những bà mẹ tương lai (would-be mothers), họ đương đầu với các trơœ ngại khác nhau khi cố gắng cân bằng đời sống gia đình và nghề nghiệp. Sinh học có thể không dễ dàng tha thứ, và các thể chế cuœa công ty cũng vậy: những người tự nguyện tạm ngưng theo đuổi sự nghiệp cuœa họ để nuôi nấng con cái thường nhận thấy rằng sự trơœ lại nghề cũ thì vô cùng khó khăn. Rất nhiều người trong cuộc khaœo sát cuœa bà Hewlett nói rằng họ caœm thấy rất khó thơœ bơœi các vị sếp quá quy tắc; hai phần ba cho biết họ mong muốn có thể tham gia trơœ lại lực lượng lao động.
Nơi làm việc cho những người có con cần phaœi được thay đổi để họ có thể giaœm tốc độ trong thời gian ngắn và rồi trơœ lại tốc độ bình thường khi con cái cuœa họ lớn hơn. Bà Hewlett hy vọng rằng cuộc chiến tranh giành tài năng sẽ làm cho các công ty có chính sách thân thiện-gia đình hơn để thu hút và duy trì những người làm cha mẹ có nhiều tài năng nhất, dù nữ giới hoặc nam giới. Mặc dù rất nhiều các đề nghị cuœa bà Hewlett không chắc sẽ được thực hiện trong thời gian gần như: nghỉ có lương để sinh con, các thời gian tạm nghỉ chính thức tương tự chính sách rộng rãi cuœa IBM cho phép các nhân viên ngưng làm việc tới ba năm với sự baœo đaœm được trơœ lại công việc cũ hoặc tương tự; một đạo luật mới Fair Labor Standards Act sẽ ngăn chặn làm việc 80 tiếng một tuần bơœi làm cho mọi viên giám đốc có quyền hươœng tiền làm việc ngoài giờ.
Bà Hewlett tự gọi mình là người uœng hộ thuyết nam nữ bình quyền, nhưng bà thường so gươm với những người tranh đấu cho quyền bình đẳng, những người mà bà lên án là quá lo lắng về sự chọn lựa sinh đeœ đến độ không quan tâm đến nhu cầu cuœa những phụ nữ quyết định để làm mẹ. Bà lưu ý rằng trong lịch sưœ gia đình, có sự phát triển trong thời gian gần đây để phụ nữ có quyền quyết định việc sinh đeœ con cái. Quyết định có hoặc không có một đứa con luôn luôn sẽ là một quyết định quan trọng nhất đối với bất cứ ai; sự khó khăn là không cho phép thời gian và sinh học làm nó cho họ.
Bà Hewlett đã dành hầu hết thời gian để viết và giaœng dạy về sự cần thiết cuœa chính phuœ và ngành kinh doanh phát triển nhiều hơn nữa những nơi làm việc có tính cách thân thiện-gia đình, bà đã tốt nghiệp bằng tiến sĩ kinh tế từ đại học Harvard. Và bà đã có các đứa con rồi mất chúng và rồi lại cố gắng để có thêm nữa. Khi còn là một giáo sư rất treœ bà đã có một đứa con chập chững biết đi, rồi mất hai đứa con sinh đôi khi đã được sáu tháng trong bụng. Tuy thế bà Hewlett rất may mắn, có thêm ba đứa con nữa, gồm bé Emma ra đời khi bà đã 51 tuổi với trứng hiến tặng và sự điều trị. Bà Hewlett rất hiểu sự "khao khát có con" cuœa nhiều người.
Ít nhất bà Hewlett hiểu lòng khao khát này đối với phụ nữ. Bà tranh luận đàn ông có một lợi thế bất công: "Ngày nay, theo kinh nghiệm dường như là các phụ nữ càng thành công thì càng khó lấy chồng hoặc sinh một đứa con. Riêng đối với nam giới thì điều này trái ngược. Tôi nhận thấy rằng chỉ một phần tư những người đàn ông có nghề chuyên môn cao cuối cùng không có con. Nam giới thường nhận thấy nếu họ thành công, mọi thứ khác sẽ một cách tự nhiên theo sau."
Nhưng quan điểm này không hoàn toàn công bằng đối với các thưœ thách mà đàn ông cũng phaœi đương đầu. Nam giới cũng làm việc quá mệt nhọc hơn bao giờ hết, và toa thuốc cuœa bà Hewlett rằng nữ giới cần nghĩ đến việc có con sớm hơn làm nhiều đàn ông trơœ thành trụ cột gia đình. Họ sẽ trơœ thành các người cha sinh con, nhưng không có nhiều cơ hội để là người cha tốt. Ông Adamson thuộc trường đại học Harvard thú nhận rằng: "Rất nhiều bạn bè cuœa tôi là những người đàn ông có gia đình giờ đây đã ly dị. Khi bạn hoœi họ điều gì đã xaœy ra, đại đa số sẽ traœ lời 'Ồi, tôi chẳng bao giờ ơœ nhà. Tôi làm việc suốt thời gian, không mấy khi dành sự quan tâm đến gia đình tôi. Ước gì tôi đã có thể dành nhiều thời giờ cho đời sống gia đình, nhưng giờ đây đã quá trễ."
Tuy thế bà Hewlett vẫn quaœ quyết rằng nam giới không đối phó cùng các sự "chọn lựa khắc nghiệt" mà phụ nữ đương đầu. Bà tranh luận: "Những người đàn ông nhận thấy họ không có mối quan hệ tốt với các đứa con trươœng thành ít nhất ông ta cũng còn có cơ hội thứ nhì bơœi là các ông nội. Riêng đối với phụ nữ, sự không có con thể hiện một sự mất mát kéo dài vào tương lai. Nó có nghĩa là không có con và đương nhiên không có cháu nội cháu ngoại." Trong khi các cuốn sách trước đầy ắp các nguyên tắc cho người khác sống theo. Cuốn sách này có tính cách cá nhân nhiều hơn. Bà đã cho thêm gia vị vào cuốn sách bằng những chuyện có tính cách khuyên răn như: phụ nữ có cách ứng xưœ gần như đe dọa những người đàn ông mà họ hẹn hò, quá thành công và bận rộn, theo đuổi quá mức chỉ thích hợp với những ai tìm kiếm người săn sóc. Lời văn đáng tin cậy nhưng có xu hướng chọn lựa cẩn thận, và khiến người đọc nghĩ tác giaœ kêu gọi phụ nữ nên dành nhiều thời giờ ơœ nhà, nơi mà chức năng làm mẹ đến trước mọi vai trò khác.
Trước những lời phê bình này bà Hewlett traœ lời rằng bà chỉ đang cố gắng giúp phụ nữ có những sự chọn lựa khôn ngoan nhất dựa trên nguồn thông tin tốt nhất. Bà không đề nghị sự trơœ lại với thập niên 1950, hoặc gợi ý rằng phụ nữ nên theo đuổi sự học cho đến khi đạt được bằng cấp, và rồi cố gắng có con ngay sau khi tốt nghiệp. Bà đề nghị rằng phụ nữ nên đạt được bằng cưœ nhân, làm việc tận lực trong công việc đầu tiên - nhưng rồi chuẩn bị để bình ổn trong một thời gian và chuyển hướng nguồn năng lực vào đời sống riêng tư cuœa họ, với ý định sẽ bắt kịp con đường nghề nghiệp sau này. Nói một cách khác là bạn có một số sự nhượng bộ trong sự nghiệp. Nhưng bạn sẽ bắt kịp khi thời điểm thích hợp.
Tuy nhiên có vấn đề là trong cuốn sách cuœa bà Hewlett tất caœ các ví dụ về những phụ nữ thành công đều đã có gia đình và sinh con trong tuổi 20. Các phụ nữ này có thể đã thoát được số phận cuœa những bà mẹ tương lai (would-be mothers), họ đương đầu với các trơœ ngại khác nhau khi cố gắng cân bằng đời sống gia đình và nghề nghiệp. Sinh học có thể không dễ dàng tha thứ, và các thể chế cuœa công ty cũng vậy: những người tự nguyện tạm ngưng theo đuổi sự nghiệp cuœa họ để nuôi nấng con cái thường nhận thấy rằng sự trơœ lại nghề cũ thì vô cùng khó khăn. Rất nhiều người trong cuộc khaœo sát cuœa bà Hewlett nói rằng họ caœm thấy rất khó thơœ bơœi các vị sếp quá quy tắc; hai phần ba cho biết họ mong muốn có thể tham gia trơœ lại lực lượng lao động.
Nơi làm việc cho những người có con cần phaœi được thay đổi để họ có thể giaœm tốc độ trong thời gian ngắn và rồi trơœ lại tốc độ bình thường khi con cái cuœa họ lớn hơn. Bà Hewlett hy vọng rằng cuộc chiến tranh giành tài năng sẽ làm cho các công ty có chính sách thân thiện-gia đình hơn để thu hút và duy trì những người làm cha mẹ có nhiều tài năng nhất, dù nữ giới hoặc nam giới. Mặc dù rất nhiều các đề nghị cuœa bà Hewlett không chắc sẽ được thực hiện trong thời gian gần như: nghỉ có lương để sinh con, các thời gian tạm nghỉ chính thức tương tự chính sách rộng rãi cuœa IBM cho phép các nhân viên ngưng làm việc tới ba năm với sự baœo đaœm được trơœ lại công việc cũ hoặc tương tự; một đạo luật mới Fair Labor Standards Act sẽ ngăn chặn làm việc 80 tiếng một tuần bơœi làm cho mọi viên giám đốc có quyền hươœng tiền làm việc ngoài giờ.
Bà Hewlett tự gọi mình là người uœng hộ thuyết nam nữ bình quyền, nhưng bà thường so gươm với những người tranh đấu cho quyền bình đẳng, những người mà bà lên án là quá lo lắng về sự chọn lựa sinh đeœ đến độ không quan tâm đến nhu cầu cuœa những phụ nữ quyết định để làm mẹ. Bà lưu ý rằng trong lịch sưœ gia đình, có sự phát triển trong thời gian gần đây để phụ nữ có quyền quyết định việc sinh đeœ con cái. Quyết định có hoặc không có một đứa con luôn luôn sẽ là một quyết định quan trọng nhất đối với bất cứ ai; sự khó khăn là không cho phép thời gian và sinh học làm nó cho họ.
Gửi ý kiến của bạn