Đạo luật cải tổ di dân ban hành cuối năm 1996 đòi hỏi người bảo lãnh phải làm đơn bảo trợ tài chánh I-864 để bảo đảm trước pháp luật là sẽ hoàn toàn chịu trách nhiệm về tài chánh đối với người được bảo lãnh. Tuy nhiên đạo luật này cũng ấn định các trường hợp bảo lãnh thân nhân mà không cần phải điền đơn bảo trợ I-864.
Sau đây là phần chỉ dẫn về những trường hợp không phải làm đơn bảo trợ tài chánh I-864. Mặc dù Sở Di Trú và Nhập Tịch (INS) đã ra thông tư chính thức về điều này vào giữa tháng 5 vừa qua, cho đến nay rất ít người trong cộng đồng Việt biết đến thông tư này và do đó bị thiệt thòi quyền lợị Chúng tôi viết bài này để giải thích về những quyền lợi nàỵ
1. Những diện được miễn làm đơn I-864
Theo đạo luật cải tổ di dân do Quốc Hội ban hành cuối năm 1996, những ai bảo lãnh cho thân nhân đều phải chịu trách nhiệm trước luật pháp về tài chánh đối với người được bảo trợ. Người bảo lãnh do đó phải làm đơn I-864, có quy định những ràng buộc pháp lý và những biện pháp chế tài. Trước kia người bảo lãnh chỉ phải làm đơn I-134, không có tính chất ràng buộc pháp lý.
Tuy nhiên đạo luật này cũng ấn định rằng những người được bảo lãnh nhưng đã đi làm hay được thừa hưởng từ thân nhân đủ 40 quý (tam cá nguyệt, 3 tháng) có thu nhập thì được miễn điều kiện kể trên, nghĩa là không cần phải có người làm đơn bảo trợ tài chánh.
Trong thông tư ngày 17 tháng 5, 2001, Sở Di Trú và Nhập Tịch giải thích về các trường hợp này như sau.
Con cái được thừa hưởng số quý có thu nhập của cha hoặc mẹ hoặc của cả hai cho đến khi người con đủ 18 tuổị Thời gian được tính không phụ thuộc vào ngày sanh của người con. Nghĩa là người con được thừa hưởng cả những quý có thu nhập của cha hoặc mẹ từ trước khi người con chào đời. Ví dụ, người con chào đời năm 1995 và người cha đã làm việc từ năm 1990 thì người con vẫn được thừa hưởng tất cả những quý có thu nhập của cha từ năm 1990 đến naỵ
Đối với vợ hay chồng thì chỉ được thừa hưởng số quý có thu nhập của nhau tính từ ngày làm hôn thú. Vợ và chồng đã ly dị thì không được thừa hưởng số quý có thu nhập của nhau nữạ Tuy nhiên trong trường hợp vợ hay chồng đã qua đời thì người sống sót vẫn được hưởng số quý của người đã qua đờị
Quý có thu nhập có thể tính hỗn hợp vừa do chính mình đi làm vừa do thừa hưởng của thân nhân. Ví dụ, một người con 12 tuổi theo cha sang Mỹ trong chương trình HỌ Người con được thừa hưởng số quý có thu nhập của người cha cho đến khi đủ 18 tuổị Giả thử số quý có thu nhập thừa hưởng của người cha là 24 quý. Sau đó nếu người con đi làm và tự mình tích luỹ thêm 16 quý có thu nhập thì khi xin thẻ xanh sẽ không cần nộp đơn I-864.
2. Trường hợp công dân bảo lãnh cho con dưới 18 tuổi
Ngày 30 tháng 10, 2000 Tổng Thống Clinton ban hành đạo luật Child Citizenship Act (Đạo Luật Quốc Tịch Cho Con Cái). Đạo luật này ấn định rằng con cái hội đủ tất cả các điều kiện sau đây đương nhiên có quốc tịch Hoa Kỳ: (i) Hoặc cha hoặc mẹ là công dân (ii) Người con dưới 18 tuổi (ìi) Người con đang có mặt tại Hoa Kỳ và sống với người cha hoặc mẹ có quốc tịch và đã nhập cảnh hợp pháp vào Hoa Kỳ để định cư vĩnh viễn.
Như thế, các trường hợp công dân Hoa Kỳ bảo lãnh cho con cái sẽ không phải làm đơn I-864 nếu người con vẫn còn dưới 18 tính đến ngày được chấp thuận cho nhập cảnh Hoa Kỳ. Các điều kiện của đạo luật cải tổ di dân chỉ áp dụng cho những trường hợp không phải là công dân. Với đạo luật do Tổng Thống Clinton ban hành kể trên thì những con cái nào dưới 18 tuổi và được bố hoặc mẹ là công dân Hoa Kỳ bảo lãnh sẽ đương nhiên trở thành công dân khi đặt chân đến Hoa Kỳ. Nghĩa là đòi hỏi của đạo luật cải tổ di dân cũng sẽ tự động chấm dứt và đơn I-864 lập tức trở thành không cần thiết.
Muốn được hưởng quyền lợi này, người bảo lãnh hay người được bảo lãnh cần cung cấp một văn thư xác nhận là người con sẽ đến Hoa Kỳ trước 18 tuổi và sẽ sống với người cha hoặc mẹ là công dân Hoa Kỳ.
Tuy nhiên Sở Di Trú vẫn sẽ đòi hỏi sự đảm bảo của người bảo lãnh là đứa trẻ sẽ không trở thành gánh nặng tài chánh cho Hoa Kỳ. Sự đảm bảo này có thể thực hiện qua văn thư cam kết của người bảo lãnh.
3. Thế nào là quý có thu nhập
Một quý được tính là có thu nhập nếu số thu nhập ở trên một chỉ số nào đó. Cho năm 2001, chỉ số này là 830 Mỹ kim. Nói cách khác, cứ mỗi ba tháng mà làm được 830 Mỹ kim trở lên thì được tính là một quý có thu nhập. Tuy nhiên, kể từ ngày 31 tháng 12, 1996 nếu trong quý đó, dù có thu nhập trên chỉ số, nhưng đương sự lại lãnh trợ cấp xã hội dành cho người nghèo khó thì quý đó lại không được xem là quý có thu nhập. Trước ngày kể trên thì vẫn được tính dù có lãnh trợ cấp xã hội.
Như vậy, nếu một người đi làm việc đều đặn thì phải mất 10 năm mới tích luỹ đủ 40 quý có thu nhập. Trong trường mất thu nhập hay phải lãnh trợ cấp xã hội thì sẽ phải làm việc nhiều hơn 10 năm mới tích luỹ đủ số quý có thu nhập.
4. Thế nào để phối kiểm số quý có thu nhập
Để chứng minh số quý có thu nhập, quý vị có thể điền và nộp mẫu đơn SSA Form 7004 hoặc có thể sử dụng dịch vụ Internet của Sở An Sinh Xã Hội (Social Security Administration) tại địa chỉ http://www.ssa.gov.
Thường sẽ phải mất từ 2 đến 4 tuần để có hồi âm. Hoặc đương đơn có thể đến văn phòng của Sở An Sinh Xã Hội và nộp đơn lấy ngay giấy xác nhận. Xin lưu ý là giấy xác nhận này, dù lấy bằng cách nào, cũng sẽ luôn luôn chậm một năm, nghĩa là chỉ cộng dồn số quý có thu nhập tính đến cách đây 12 tháng.
5. Tại sao lại có lợi
Các vấn đề trình bày ở trên rất quan trọng đối với những người trước kia đã từng đi làm và đã tích luỹ đủ hoặc trên 40 quý có thu nhập nhưng nay đã về hưu, bị giảm hay bị mất thu nhập. Số người này vẫn có thể bảo lãnh cho một số thân nhân (vợ, chồng hay con cái) mà không cần phần bảo trợ tài chánh, vốn là trở ngại cho nhiều trường hợp xin đoàn tụ gia đình.
Xin lưu ý là những chỉ dẫn trên đây không mang tính cố vấn pháp lý.