-Không ai có thể dậy ta làm sao thưởng thức trà. Ngoại trừ thời gian.
Trà có mặt tại Trung Hoa từ thời xa xưa, thuở mà có một đạo sĩ lên núi tìm thuốc phát hiện mấy chú khỉ nhâm nhi một loại lá rừng. Nhận thấy lá cây có hương thơm nhẹ nhàng, vị đạo sĩ tò mò bỏ một ít lá cây này vào tay áo. Về đến am, người đạo sĩ bỏ lá vào ấm nước đang sủi tăm trên lò luyện thuốc. Phút chốc, trong không khí ẩm ướt vào cuối thu, một hương thơm nhẹ nhàng như ẩn như hiện mà ông chưa từng biết trước đây thoang thoảng khắp phòng. Ông bèn rót một ít vào chén để nhấm nháp thử, liền thấy tinh thần sảng khoái tỉnh táo. Đạo sĩ đã phát hiện ra một thức uống tuyệt vời TRÀ.
Vị đạo sư kia hẳn phải sống cách đây hơn 4000 năm. Theo cuốn cổ thư Trà Đạo viết vào đời Đường người Trung hoa lúc ấy đã biết thưởng thức trà hơn 4000 năm rồi. Theo cuốn sách này, thời Tây Chu trà dùng như một tặng phẩm. Cuối đời Chu vào thời Chiến Quốc trà được dùng như một vị thuốc. Khoảng 300 năm từ thời Tam Quốc đến thời Nam-Bắc Triều, các vị sư Phật giáo uống trà trước khi tham thiền, nên vào thời đó cây trà được trồng rất nhiều tại các khu thung lũng và sườn đồi chung quanh chùa. Người ta nhận rằng trà và Phật giáo gắn liền với nhau theo chiều dài lịch sử. Trong thời gian này trà cũng được biết tới tại xứ Phù tang.Vào đời Đường, trà trở thành thức uống phổ thông trong dân gian. Các thi sĩ đời Đường như Lý Bạch, Bạch Cư Dị và Đỗ Phủ làm thơ nói về thú uống trà, họa sĩ Văn Trưng Minh vẽ họa trà. Đời Tống Lu You viết cuốn Trà Thư, bàn chi tiết về cách trồng, hái, sấy, sửa soạn, pha và uống trà. Như thế trà đã trở thành một phần của văn hóa, của đời sống tinh thần rồi vậy. Mời trà không chỉ là phép lịch sự mà còn là sự "đối ẩm tọa đàm". Do đó người ta chỉ rót trà vào tách khoảng 7/10, phần còn lại của tách trà lấp đầy bằng tình cảm, bằng mối thâm giao thân hữu.
Mặc dù các loại trà khác nhau nên được uống từ các loại tách khác nhau, nhưng nói chung tách trà làm bằng loại đất sét thẫm mầu ở các vùng Giang Tây và Tô Châu được ưa thích hơn cả. Những đồ gốm không tráng men tìm thấy tại Vân Nam là những chén trà rất cổ xưa. Đời Tống chén trà có hình quả chuông, men tráng mầu nâu đậm hoặc đen. Đến đời Minh và Nguyên, men trắng được ưa thích hơn. Các phường gốm Phúc Kiến tại các vùng Quảng Đông và Quảng Châu chuyên làm bộ trà xuất hiện vào đời nhà Thanh.
Mặc dù có nhiều loại trà Tầu, nhưng tất cả đều từ cùng một loại cây trà có tên khoa học là Camellia Sinensis. Các loại trà khác nhau là do thời gian ủ lá trà khác nhau (trước khi sấy), đại loại chúng ta có vài loại trà tầu chính là trà xanh, trà đen (hồng trà mặc dù có tên như vậy nhưng thực ra là trà đen), trà ô long, bạch trà và trà thơm. Trong khi trà xanh giữ nguyên mầu sắc của lá tươi, không ủ hay ủ rất ngắn hạn, và trà đen được ủ toàn phần, thì trà ô long ủ trong môt thời gian ấn định. Trà xanh có loại Long tĩnh vùng Tây Hồ. hồng trà An Huy và Hồ Nam rất có tiếng. Trà ô long có loại Thiết Quan Âm tại Phúc Kiến, Quảng đông và Đài Loan rất được ưa thích. Bạch trà là búp trà non (trắng như bạc) được hấp trước khi sấy. Bạch trà có vị ngọt tự nhiên và không có mùi "cỏ" như trà xanh. Bạch trà khá hiếm, nhưng Bạch Mẫu Đơn cũng được biết đến nhiều. Trà thơm là trà được ướp với đài hoa của hồng, nhài, lan hay mận. Trà thơm rất phổ thông tại miền bắc Trung hoa. Ngoài các loại hoa trên Việt Nam chúng ta còn ướp với hoa sói, sen và hoa ngâu. Đến đây chúng ta nhớ đến chuyện nàng cung phi Đăëng thị Huệ đã khéo léo ướp các lá trà trong búp sen khi trời còn tinh mơ, để trà đượm hương tinh khiết của hương sen. Chén trà sen của người cung nữ vô danh dâng chúa Tĩnh Đô Vương vào buổi sớm mai giúp chúa tỉnh thần hồn lẫn thần xác. Từ đó chúa để ý đến người cung nữ hái sen kia. Và như thế chén trà ướp sen đã làm lên sự nghiệp của Bà Chúa Chè.
Chọn trà đòi hỏi một sự hiểu biết rất sâu sắc. Bỏ qua về các loại trà, nói chung trà được đánh giá dựa vào năm nguyên tắc hình dáng lá trà, mầu nước trà, hương, vị và sắc bã trà. Người ta nói đến lá trà phẳng, nhọn đầu như cánh hoa. Nhưng quan trọng hơn là dựa vào kết quả khi thử trà. Dù là loại trà nào, nước trà phải trong và không gắt do lá trà bị cháy vì sấy quá độ. Sự đánh giá được coi là đầy đủ thì phải đánh giá luôn hậu vị trà và sắc bã trà.
Đó là nguyên tắc. Trong khi ta không thể học ngay được cách thưởng thức trà như thế nào, có trà ta cứ uống và thời gian sẽ chỉ cho ta sự khác biệt như thế nào. Mặt khác dù không có vị cung phi nào kề cận, nửa đêm về sáng ta chợt tỉnh giấc nồng, dậy khêu ngọn đèn con, pha một ấm trà. Trong cái sương đêm ngoài trời thấm lạnh, thư phòng thơm mùi hương trà, nhấp ngụm trà ngon thì ai cũng cảm thấy cái sảng khoái của bậc quân vương thuở xưa vậy.
ÍCH LỢI CỦA TRÀ
Trà trở thành thức uống của người Tầu và người Việt từ lâu đời. Rất nhiều người thích dùng một tách trà sau mỗi bữa ăn.
Mùa hè với khí hậu nóng bức, uống trà giúp giải nhiệt, khinh khoái. Lá trà chúa một số hóa chất như 20% tannic acid chống viêm nhiễm, 5% caffein giúp máu huyết lưu thông. Uống trà sau mỗi bữa ăn rất tốt trong việc tiêu hóa. Người Trung hoa nói rằng "Ba ngày có thể thiếu muối, nhưng một ngày không thể thiếu trà."
Trà cũng có nhiều vitamins giúp loại trừ nicotine ra khỏi cơ thể. Một tách trà đậm làm tỉnh táo đầu óc sau những bữa nhậu nhẹt say sưa.
Tuy vậy, không nên cho là trà càng đậm càng mang nhiều hiệu quả. Trà đậm có thể ảnh hưởng đến bón, mất ngủ. Thường xuyên uống trà quá đậm có thể gây rối loạn áp suất máu, giảm lượng sữa mẹ và vàng răng. Tuy nhiên những điểm bất lợi này có thể được điều chỉnh dễ dàng: bạn đừng pha trà đậm quá.
Trong khi trà ô long được cho là chống lão hóa, hạ áp suất máu, giảm cơ nguy bịnh tim và hỗ trợ hệ thống miễn nhiễm trong cơ thể, thì trà xanh giúp ngăn ngừa ung thư thực quản, ung thư da, giảm cholesterol. Trà xanh có nhiều vitamin B giúp thư giãn, chống lão hóa. Trà xanh còn được cho là ngăn ngừa sự phát triển một số loại vi khuẩn, giảm bớt nguy cơ lây truyền bịnh.