Ông Mackubin Thomas Owens, một cựu chiến binh Hoa kỳ, từng phục vụ ở Việt nam, có viết một bài trên báo New York Times rằng đừng có hỏi các ứng cử viên Tổng thống Hoa kỳ là họ có từng phục vụ chiến tranh Việt nam hay không vì việc đó chẳng liên quan gì tới việc họ có khả năng lãnh đạo đất nước Hoa kỳ hay không.
Thật vậy, mỗi lần sắp có cuộc bầu cử TT, thì dư luận Mỹ thường đặt vấn đề các ứng cử viên TT đã làm gì trong thời cuộc chiến Việt nam và xem đó như một trong những tiêu chuẩn cần thiết để chứng tỏ khả năng lãnh đạo đất nước Hoa kỳ. Ông Mackubin cho rằng một câu hỏi như thế chẳng nên đặt ra chút nào cả, nhứt là khi người ta muốn xoi mói xem ứng cử viên có trốn tránh quân dịch hay tìm cách “che thân” bằng việc vận dụng sự quen biết cao cấp của chính mình hay gia đình mình để khỏi phải phục vụ trong những đơn vị nguy hiểm. Đặc biệt dư luận muốn ám chỉ ông George Bush, đương kim thống đốc tiểu bang Texas, đã tìm cách phục vụ trong không quân của tiểu bang để tránh các hiểm nguy.
Sau khi chứng minh rằng chiến tranh chẳng bao giờ là một công cuộc “kinh doanh” đồng đều, trong đó sự phân phối trách nhiệm thường là việc may rủi. Ví dụ như trong thời thế chiến thứ nhì, có một số thanh niên được miễn quân dịch. Và ngay trong những người bị gọi nhập ngũ, không phải bất cứ ai cũng phải ở trong tình trạng nguy hiểm mhư nhau. Theo ông, không phải người lính nào cũng ra chiến trường và ngay trong khi cùng ở chiến trường cũng không phải nơi nào cũng nguy hiểm như nhau.
Như vậy, không thể lấy việc có đi lính hay có phục vụ trong chiến tranh Việt nam hay không để làm thành tích ứng cử TT. Lịch sử Hoa kỳ có nhiều vị TT không hề ở trong quân ngũ, như Abraham Lincoln hay Franklin Roosevelt. Trái lại Lyndon Jonhson và Richard Nixon đều phục vụ trong quân đội. Ý ông Mackubin muốn nói rằng có phục vụ trong quân đội chưa hẳn đã giúp mình trở nên một tổng thống tốt.
Chúng tôi hoàn toàn đồng ý với ông Mackubin về quan diểm nói trên và thêm rằng vấn đề chiến tranh Việt nam càng bớt nói đi càng tốt cho đất nước Hoa kỳ. Nhắc lại chiến tranh Việt nam, một cuộc chiến đã làm tốn hao quá nhiều tiền của và sinh mạng của nhân dân Hoa kỳ để rồi chấp nhận một sự thất trận được che đậy, chỉ làm đau lòng những người đã hy sinh vì đại nghĩa tự do và dân chủ mà chiến đấu.
Nhưng không đề cập tới chiến tranh hay vấn đề Việt nam không có nghĩa là không cần rút tỉa những bài học lịch sử của sự thất bại đau thương nầy, nhất là cách đối xử giữa bạn với thù. Nhà lãnh đạo nào của Hoa kỳ cũng phải thấu hiểu vì sao Hoa kỳ đã thất bại ở Việt nam. Đây là một vấn đề nhận định tổng quát chứ không phải chỉ trên phương diện quân sự để rồi đòi hỏi các ứng cử viên TT phải phục vụ trên chiến trường Việt nam mới có giá trị. Sự thất bại của Hoa kỳ ở Việt nam không phải trên phương diện quân sự mà chính là trên phương diện chính trị, ngoại giao, tuyên truyền, văn hóa xã hội, nhứt là tâm lý.
Theo lời thú nhận của ông Robert McNamara, người phải chịu phần lớn trách nhiệm về chiến tranh Việt nam, thì vào đầu năm 1961, khi TT Kennedy bắt tay vào việc lãnh đạo đất nước Hoa kỳ, ông cũng như toàn thể nội các đều không ai biết gì về lịch sử, về văn hóa, về phong tục tập quán của dân tộc Việt nam thì làm sao mà thắng lợi được, nhất là trong một cuộc chiến mà phần chính trị, tâm lý nặng hơn là quân sự. Các lầm lẫn mà người ta đã phạm phải ở Việt nam là cứ “đếm xác” (bodies count) để phân định sự thắng bại.
Cho tới nay dường như Hoa kỳ - các nhà lãnh đạo Hoa kỳ - vẫn chưa hiểu gì về Việt nam, về bản chất thực sự của cộng sản Việt nam, để có một chính sách hữu hiệu trong giai đoạn hiện tại. Và ngay trong hàng ngũ quốc gia Việt nam trước đây, Hoa kỳ cũng chẳng phân biệt đâu là giả đâu là thiệt, để tưởng rằng những tên “bán nước cầu vinh” có thể giúp cho Hoa kỳ chiến thắng được ở Việt nam.
Bài học kinh nghiệm nào cũng đắt giá và không phải chỉ có quân nhân mới có khả năng nhận thức được những bài học kinh nghiệm dùng làm thành tích lãnh đạo đất nước. Vấn đề Việt nam là một vấn đề chính trị trên hết, Hoa kỳ cần có những nhà chính trị lão luyện hơn là những quân nhân, dù là thiện nghệ.
Thật vậy, mỗi lần sắp có cuộc bầu cử TT, thì dư luận Mỹ thường đặt vấn đề các ứng cử viên TT đã làm gì trong thời cuộc chiến Việt nam và xem đó như một trong những tiêu chuẩn cần thiết để chứng tỏ khả năng lãnh đạo đất nước Hoa kỳ. Ông Mackubin cho rằng một câu hỏi như thế chẳng nên đặt ra chút nào cả, nhứt là khi người ta muốn xoi mói xem ứng cử viên có trốn tránh quân dịch hay tìm cách “che thân” bằng việc vận dụng sự quen biết cao cấp của chính mình hay gia đình mình để khỏi phải phục vụ trong những đơn vị nguy hiểm. Đặc biệt dư luận muốn ám chỉ ông George Bush, đương kim thống đốc tiểu bang Texas, đã tìm cách phục vụ trong không quân của tiểu bang để tránh các hiểm nguy.
Sau khi chứng minh rằng chiến tranh chẳng bao giờ là một công cuộc “kinh doanh” đồng đều, trong đó sự phân phối trách nhiệm thường là việc may rủi. Ví dụ như trong thời thế chiến thứ nhì, có một số thanh niên được miễn quân dịch. Và ngay trong những người bị gọi nhập ngũ, không phải bất cứ ai cũng phải ở trong tình trạng nguy hiểm mhư nhau. Theo ông, không phải người lính nào cũng ra chiến trường và ngay trong khi cùng ở chiến trường cũng không phải nơi nào cũng nguy hiểm như nhau.
Như vậy, không thể lấy việc có đi lính hay có phục vụ trong chiến tranh Việt nam hay không để làm thành tích ứng cử TT. Lịch sử Hoa kỳ có nhiều vị TT không hề ở trong quân ngũ, như Abraham Lincoln hay Franklin Roosevelt. Trái lại Lyndon Jonhson và Richard Nixon đều phục vụ trong quân đội. Ý ông Mackubin muốn nói rằng có phục vụ trong quân đội chưa hẳn đã giúp mình trở nên một tổng thống tốt.
Chúng tôi hoàn toàn đồng ý với ông Mackubin về quan diểm nói trên và thêm rằng vấn đề chiến tranh Việt nam càng bớt nói đi càng tốt cho đất nước Hoa kỳ. Nhắc lại chiến tranh Việt nam, một cuộc chiến đã làm tốn hao quá nhiều tiền của và sinh mạng của nhân dân Hoa kỳ để rồi chấp nhận một sự thất trận được che đậy, chỉ làm đau lòng những người đã hy sinh vì đại nghĩa tự do và dân chủ mà chiến đấu.
Nhưng không đề cập tới chiến tranh hay vấn đề Việt nam không có nghĩa là không cần rút tỉa những bài học lịch sử của sự thất bại đau thương nầy, nhất là cách đối xử giữa bạn với thù. Nhà lãnh đạo nào của Hoa kỳ cũng phải thấu hiểu vì sao Hoa kỳ đã thất bại ở Việt nam. Đây là một vấn đề nhận định tổng quát chứ không phải chỉ trên phương diện quân sự để rồi đòi hỏi các ứng cử viên TT phải phục vụ trên chiến trường Việt nam mới có giá trị. Sự thất bại của Hoa kỳ ở Việt nam không phải trên phương diện quân sự mà chính là trên phương diện chính trị, ngoại giao, tuyên truyền, văn hóa xã hội, nhứt là tâm lý.
Theo lời thú nhận của ông Robert McNamara, người phải chịu phần lớn trách nhiệm về chiến tranh Việt nam, thì vào đầu năm 1961, khi TT Kennedy bắt tay vào việc lãnh đạo đất nước Hoa kỳ, ông cũng như toàn thể nội các đều không ai biết gì về lịch sử, về văn hóa, về phong tục tập quán của dân tộc Việt nam thì làm sao mà thắng lợi được, nhất là trong một cuộc chiến mà phần chính trị, tâm lý nặng hơn là quân sự. Các lầm lẫn mà người ta đã phạm phải ở Việt nam là cứ “đếm xác” (bodies count) để phân định sự thắng bại.
Cho tới nay dường như Hoa kỳ - các nhà lãnh đạo Hoa kỳ - vẫn chưa hiểu gì về Việt nam, về bản chất thực sự của cộng sản Việt nam, để có một chính sách hữu hiệu trong giai đoạn hiện tại. Và ngay trong hàng ngũ quốc gia Việt nam trước đây, Hoa kỳ cũng chẳng phân biệt đâu là giả đâu là thiệt, để tưởng rằng những tên “bán nước cầu vinh” có thể giúp cho Hoa kỳ chiến thắng được ở Việt nam.
Bài học kinh nghiệm nào cũng đắt giá và không phải chỉ có quân nhân mới có khả năng nhận thức được những bài học kinh nghiệm dùng làm thành tích lãnh đạo đất nước. Vấn đề Việt nam là một vấn đề chính trị trên hết, Hoa kỳ cần có những nhà chính trị lão luyện hơn là những quân nhân, dù là thiện nghệ.
Gửi ý kiến của bạn