Thực vậy, chế độ CSVN không còn lý do tồn tại - sự sụp đổ của CSVN là một tất yếu. So sánh mức sản xuất với các quốc gia tự do, Kinh tế học đã xác nhận một cách khoa học rằng sản lượng trên đầu người, sản lượng gập trong nước và năng suất của nước CS vẫn thua kém. Tỷ lệ 1 trên 2.7 (UNDP,1990). Trái lại các nước CS rất mạnh tay trong việc kềm kẹp nhân dân và cấm đoán thông tin nghị luận nặng nề. Với xu thế toàn cầu kinh tế và chính trị của thời đại Cách Mạng Tin học, một chánh thể độc tài toàn diện như thế không thể tồn tại. Bên cạnh lý do lịch sử và học lý, sự sụp đổ của CSVN là một tất yếu do sự đấu tranh nội tại cái mà CS gọi là hủy thể trong biện chứng pháp. Hủy thể thứ nhứt là sự chống đối trong đảng không còn mang tính cách cá nhân, bè nhóm mà đã biến thể thành Nam-Bắc, Quân-Cảnh, Đảng-Quyền, và lập trường thân Tây phương hay bám giáo điều. Tương quan chiến lược của các thế lực nội bộ tranh giành quyền lực rất mong manh, có thể đổ vỡ bất cứ lúc nào do biến cố trong hay ngoài nước. Thứ hai là sự chống đối Đảng từ Nhân dân. Ba mươi năm ở Bắc, hai mươi năm ở Nam, người dân đã quá hiểu CS, không một cách gì có thể mị dân được nữa. Do vậy mà sự chống đối không còn trong tư tưởng, thái độ mà đã biến thành hành động, phong trào lan rộng và ăn sâu từ thành thị đến nông thôn. Thí dụ điển hình là phong trào các tôn giáo đòi tự do, PGHH, Cao đài giáo chống tổ chức tay sai của CS, đòi hủy bỏ điều 4 hiến pháp.
Quân đội và Công An CSVN liệu còn tinh thần, còn “trung” với Đảng trước áp lực quốc tế và cao trào của nhân dân" Hay sẽ đứng bên ngoài như quân đội Liên Xô hoặc bất lực như K.G.B lúc Boris Yeltsin và nhân dân vùng lên. Vấn đề sẽ trầm trọng hơn nếu có thêm tình báo các cường quốc chen vào. Mà ai dám đoan chắc là không có"
Một khi có chính biến dù do đảo chánh, nổi dậy hay nhượng bộ do áp lực trong hay ngoài nước, thì CSVN dù còn cũng phải biến thể, dù mất vẫn còn tàn dư. Thời kỳ tranh tối tranh sáng sẽ bắt đầu thời kỳ hậu Cộng sản. Đó cũng là lúc người Việt Quốc Gia phải đấu tranh quyết liệt. Cuộc đấu tranh quyết liệt đó đòi hỏi một sự chuẩn bị ngay từ bây giờ nếu không muốn bị trễ.
Nếu chúng ta hai triệu người Việt Hải ngoại dù có ít nhiều dị biệt về lập trường và quan điểm, nhưng hai mươi năm nay vẫn đứng vững trong một mẫu số chung là chống cộng. Thêm vào đó cái thế mạnh của sự hấp thụ khoa học kỹ thuật tây phương là một thế lực rất cần. Cần nhưng không đủ. Không đủ vì địa bàn đấu tranh là trong nước. Và đối thủ là lớp người CS đã ăn, ở, làm việc trong nước, kinh nghiệm hằng mấy thập niên.
Trong khi đó tại đấu trường, phải đau buồn mà nói rằng quần chúng thì có tinh thần chống cộng cao vì là nạn nhân trực tiếp của cộng sản nhưng thiếu tổ chức. Trừ hoạt động bí mật, ít còn một đảng phái chính trị nào tồn tại được với sự đàn áp của CS.
Chỉ có tổ chức tôn giáo còn tương đối vững mạnh, lại được gắn chặt với nhau bằng tín ngưỡng. Tín ngưỡng là hữu thần, là khắc tinh của vô thần. Cộng sản, chính vì có tổ chức và tinh thần đó mà gần đây các tôn giáo mới mạnh dạn đứng lên đòi tự do hành đạo trong nước. Do vậy, cuộc đòi hỏi này có tính cách lịch sử có thể kéo theo dây chuyền tranh đấu khác. Đó là cuộc thử nghiệm mà người Việt ưu tư cho tiền đồ Dân tộc. Không thể không tiếp tay vận động yểm trợ trong cũng như ngoài nước.
Rút kinh nghiệm nước Nga, mười năm chánh quyền cách mạng dân chủ phải đấu tranh quyết liệt mới đứng vững trên đôi chân của mình. Ông Boris Yeltsin mới yên tâm cáo lão qui điền, ông Clinton mới giã từ bằng lời khen ông Yeltsin là người vững lòng tin dân chủ. Chúng ta người Việt trước sự đấu tranh nguy hiểm ngàn cân treo trên tóc, thập tử nhất sinh của những đồng bào quê nhà, hãy đối diện với lương tâm mình mà tự hỏi “đã làm gì cho đất nước” Việt Nam chưa" Hỏi tức là trả lời, là ủng hộ cuộc đấu tranh hiện tại và dọn mình đứng vào hàng ngũ của cuộc đấu tranh hiện thời và thòi hậu Cộng sản.