Toàn cầu hóa, dĩ nhiên, là hướng đi không lùi lại được. Bạn không thể trở về thời mặc áo bà ba, đi guốc nữa. Hãy nhìn lại trên người chúng ta. Áo hiệu Old Navy, sản xuất tại Trung Quốc; hay giày Nike, sản xuất tại Việt Nam. Trong một hội nghị tại Melbourne đầu tháng 9, trước khi Thế Vận Sydney khai mạc, Thủ Tướng Úc John Howard tuyên bố rằng “toàn cầu hóa chính là tấm vé tới thịnh vượng cho những quốc gia nghèo.”
Đó là một sự thực. Thử hình dung, nếu các hãng nước ngoài rủ nhau rời bỏ Việt Nam, chắc chắn sẽ có hàng trăm ngàn người thất nghiệp, và chúng ta sẽ trở về thời “trung kiên với chủ nghĩa xã hội” hệt như Bắc Hàn bây giờ. Nhưng cũng chính toàn cầu hóa có thể được nhiều ngừơi nhìn “như là tấm màn che cho các công ty đa quốc vào bóc lột dân nghèo,” theo nhận xét của Tom Plate, một giaó sư UCLA cũng là tham dự viên trong Diễn Đàn Kinh Tế Thế Giới ở Melbourne lúc đó, trong baì viết trên Los Angeles Times hôm 13.9.2000.
Nhiều người còn chỉ trích rằng công cụ của toàn cầu hóa chính là chính sách giải phóng thị trường vốn và mở cửa biên giới cho tự do mậu dịch - những điều mà IMF và WB liên tục thúc đẩy các nước nghèo thực hiện, dựa trên các lý thuyết kinh tế một thời gọi là “đồng thuận Washington” (Washington consensus) đã hình thành chính sách cho vay của IMF và WB. Có đúng vậy không"
Và cho tới bản tường trình phổ biến hôm Thứ Ba, trong hội nghị do IMF và WB tổ chức ở Prague, Tiệp, thì rõ ràng là 2 cơ cấu tài chánh qúôc tế lớn nhất thế giới cũng đang xét lại vai trò của họ.
Nicholas Stern, kinh tế gia cao cấp nhất của WB, nói hôm Thứ Ba, “Chúng ta thấy rõ ràng sự quan trọng của một phương pháp rộng hơn để phát triển. Trong nghĩa đó, [bản tường trình] đã vượt xa khỏi ‘đồng thuận Washington’.”
Các kinh tế gia ghi nhận trong bản tường trình quan trọng đó rằng, trong khi kinh tế toàn cầu tăng 2.3% một năm từ 1965 tới 1998, thì khoảng cách giữa nứơc giàu và nghèo lại 10 lần rộng hơn hồi 30 năm trước, khi đo bằng tổng sản lượng quốc dân trên đầu người. Họ ghi rằng, có thêm 100 triệu người sống trong đói nghèo hơn là 1 thập niên trước, và khoảng cách giữa người giàu và nghèo lại rộng hơn tại nhiều nước.
Lương trung bình hàng năm tại 20 nước giàu nhất thế giới năm ngoái là 25,480 đô la (28,996 Euros). Tại 20 nước ngheò nhất thế giới, con số này là 520 đô la, theo các dữ kiện của WB.
Bản tường trình đó có tên là “The Quality of Growth” (Phẩm Chất của Tăng Trưởng). Và trong này cũng là lần đầu tiên các kinh tế gia nói rằng mặc dù yếu tố tự do hóa tài chánh là quan trọng, chiến lược giảm đói nghèo phải có thêm phần chi phí để xây dựng một “hạ tầng cơ cấu con người.”
Điều đó có nghĩa là các chính phủ phải đầu tư vào các hệ thống giaó dục, bảo đảm là tài nguyên thiên nhiên của họ không bị cạn kiệt quá sớm, và phải có bước tích cực chống tham nhũng. “Chúng tôi không nói rằng những việc này quan trọng hơn việc tự do hóa thị trường tài chánh,” theo lời Vinod Thomas, tác giả bản tường trình. “Điều chúng tôi nói là, chúng ít nhất cũng quan trọng như là việc tự do hóa thị trường tài chánh.”
Các kết luận này làm cho nhiều nhóm biểu tình bên ngoài hài lòng hơn, ít nhất thì WB đã trả lời tích cực cho những cuộc biểu tình nhiều năm qua của họ. Seth Amgott, phát ngôn nhân tổ chức Oxfarm, nói, “Nhiều mối quan tâm mà người ta lo ngại [về chiến lược của WB và IMF] như dường đã được trả lời.”
Bản tường trình dài và nhiều chi tiết kinh khủng. Điều chắc chắn là Việt Nam có thể học được nhiều về các phương pháp khả thi trong việc chống đói nghèo, trong hướng đi mới mà WB và IMF biết bày tỏ quan tâm với những người biểu tình ngoaì phố.
Điều cực kỳ quan trọng mà các lãnh tụ Đảng CSVN phải ghi nhớ là một kết luận trong bản tường trình WB: Các nước có thể tăng gấp đôi thu nhập bình quân đầu người bằng cách cải tiến phẩm chất của hệ thống pháp lý của họ, và làm mạnh hơn trong việc chống tham nhũng. Và, bản tường trình nhấn mạnh là, không có ngoại lệ nào, các nước cho dân hưởng quyền tự do phát biểu cũng có tổng sản lượng quốc dân trên đầu người cao hơn. Bao giờ thì Hà Nội chịu hiểu ra điều này.