Đột nhiên tất cả đều đảo lộn. Tây-phương ra dấu... Thoạt tiên là con tầu xuyên-Tây Bá lợi Á. Con tầu huyền bí. Rồi một phim Pháp, viễn ảnh về một cõi đời rực rỡ...
Nhưng tại sao lại là (tài tử Pháp) Belmondo"
Với cái mũi dèn dẹt, anh ta giống chúng tôi. Cuộc sống của chúng tôi - taiga, vodka, những trại - là từ những hình vóc đó. Những khuôn mặt của một vẻ đẹp man rợ hằn lên những đường nét khắc khổ. Tại sao anh ta"
Bởi vì anh ta chờ đợi chúng tôi. Anh ta không bỏ rơi chúng tôi ở bậc thềm một lâu đài tráng lệ, và những lần tới lui, giữa những giấc mơ và cuộc sống thường ngày của anh, anh ta luôn luôn ở bên cạnh chúng tôi. Người ta theo anh vào tới cái điều không thể tưởng tượng ra nổi.
Chúng tôi còn yêu anh, bởi cái điều vô ích, của những thành quả, những chiến công. Bởi sự phi lý của những chiến thắng, chinh phục. Thế giới mà chúng tôi sống dựa trên tương lai rạng rỡ của một ngày mai ca hát. Đó là luận lý của chúng tôi. Những buổi gắn mề đay nơi điện Cẩm Linh là một biểu tượng cao cả. Ngay cả trại (tù) cũng có chỗ đứng ở trong cái trật tự hài hòa đó. Rồi Belmondo tới cùng với những thành quả chẳng để làm gì, những trình diễn chẳng cần mục đích, chủ nghĩa anh hùng cho không (gratuit). Chúng tôi khám phá ra rằng, sự hiện hữu xác thịt của con người có một cái đẹp tự thân! Chẳng cần bất cứ một ngụy tư tưởng mang tính ý thức hệ, hoặc vì tương lai. Kể từ ngày đó, chúng tôi biết, về cái tự tại, tự thân tuyệt vời có tên là Tây-phương.
Lại còn cuộc gặp gỡ tại phi trường. Người nữ điệp viên chờ đón vị anh hùng của chúng tôi phải có một cái gì đó, để họ nhận ra nhau. Dữ thần chưa, đó là một... karavai, một mẩu bánh mì đen, được thốt lên bằng cái tên cúng cơm Nga của nó, trong một phim Pháp! Một tiếng rú vang lên, và cùng với nó, là lòng tự hào dân tộc chạy dài theo suốt những hàng ghế, trong rạp Tháng Mười Đỏ. Khi trở về Svetlaia, chúng tôi chỉ nói chuyện đó: Vậy là ở nơi chốn Tây-phương xa vời kia, họ cũng biết một tí, rằng chúng tôi hiện hữu!
Hoàng Xuân Trường, trong bài viết trên Thế Kỷ 21, số tháng Tám, 1997, kể về một trong những lý do vượt biên của ông. Có cả ngàn lý do, nhưng thiếu kiếm hiệp cũng là một. Ông cho rằng, xã hội cộng sản cấm kiếm hiệp chẳng phải vì nó viễn mơ, không có tính đảng, tính giai cấp, tính hiện thực xã hội chủ nghĩa, mà vì những nhân vật của Kim Dung như Hồng Giáo Chủ, Tinh Tú Lão Quái, Đông Phương Bất Bại... đã gợi đến những lãnh tụ muôn vàn kính yêu của họ.
Kinh nghiệm vượt biên của ông làm tôi nhớ đến của tôi, khi rời bỏ Hà-nội. Năm 1954, dân Hà-nội chỉ đâu một hai tuần, là quá ớn phim ảnh xã hội chủ nghĩa. Trong tình trạng còn xập xí xập ngầu đó, cũng có thể do chủ trương của nhà nước, (thời gian 300 ngày tự do của Hải-phòng), một ông chủ rạp đã cho chiếu lại một phim cũ, thuộc loại vô thưởng vô phạt. Tôi còn nhớ, đó là một phim của Ý, về một vị nữ y tá, hình như còn là nữ tu, muốn rời bỏ tu viện, và bệnh viện, để đi theo bồ. Đúng lúc bà tính rời bỏ, thì những đoàn xe đưa binh sĩ bị thương tới bệnh viện. Và bà đã quyết định ở lại. Bữa đó, cả Hà-nội sắp hàng vô coi. Còn thằng bé thì sau đó, tìm đủ mọi cách xuống Hải-phòng, trước còn xem phim, rồi về, sau đi luôn!
Andrei Makine viết Sông Tình Một Thuở bằng tiếng Tây, khi sống ở Pháp. Như trên cho thấy, không khí câu chuyện phần lớn là ở vùng Siberia, kế bên con sông Amur, ở biên giới giữa Siberia và Manchuria. Amur, tên sông, còn là một tên Nga để chỉ Cupid: Vị Thần Ái Tình, hay Con Trai Của Tình Yêu, mắt bị kín, cầm cây cung, bắn mũi tên tình, trúng ai người ấy ráng chịu. Trong tiếng Tây, Amur mang âm hưởng của chữ Amour: Tình Yêu. Thành ra, đây là cả một trò chơi chữ. Cái tên bằng tiếng Anh, Once Upon The River Love (nhà xuất bản Arcade Publishing, Inc. 1998), đã chào thua, không làm sao giữ được cuộc nhào lộn ngôn ngữ, giữa tiếng Nga, tiếng Tây, và huyền thoại.
Sinh năm 1957, tại Liên bang Xô viết, Makine lớn lên tại Penza, một thành phố nhỏ, trơ trọi cách Moscow chừng 200 dậm. Ông quen với tiếng Tây, từ khi còn nhỏ xíu, qua bà ngoại, một người Pháp. Ngay từ khi là một đứa bé, ông đã 'mần thơ', bằng cả hai thứ tiếng, tiếng Tây, và tiếng Nga.
Vào năm 1987, ông được nước Pháp chấp nhận cho tị nạn chính trị, và quyết định, sống và viết văn, ở quê hương thứ hai này. Tuy nhiên, khi ông chìa bản thảo cuốn tiểu thuyết đầu tay, bằng tiếng Tây, cho nhà xuất bản, họ đã tỏ ra nghi ngờ: một tay lưu vong mới toanh như thế này (a newly arrived exile), làm sao mà cừ tiếng Tây như vậy" (Tin Văn, trong một kỳ tới, sẽ cống hiến bạn đọc, trường hợp ly kỳ xẩy ra cho tác phẩm thứ ba của ông, Di Chúc Pháp, Le Testament Francais: đoạt hai giải thưởng văn chương hách xì xằng nhất của Pháp, trong cùng một năm, 1995.)
Sau đây, là trích dịch một số câu trả lời của ông, trong một cuộc phỏng vấn:
Những người Cô-zắc tượng trưng cho những người tạo dựng nên vùng đất Svetlaya. Một cuộc sống 'biên cương, biên đình'. Ông có thể nói thêm về họ"
-Với tôi, người Cô-zắc đại diện, hay biểu tượng cho cuộc sống tự do, không bị rằng buộc, và nói theo nghĩa đen: không biên cương, ranh giới. Ngược hẳn với cuộc chinh phục Mỹ Châu của những người Âu Châu, mà bản chất của nó, là tiêu diệt thổ dân Da Đỏ, những người Cô-zắc 'đã chinh phục' vùng Siberia mà không cần đổ máu, bằng cách nhập vào với dân cư địa phương.
Bằng cách nào, tài tử Jean-Paul Belmondo lại trở thành một hình tượng Tây Phương, trong tiểu thuyết của ông"
-Một phần do cơ may, nhưng cũng vì những phim của Belmondo được chiếu rộng rãi ở Nga. Vào tuổi mới lớn của tôi, những phim Nga đều có dụng ý truyên truyền. Thế là tôi ngỡ ngàng, khi thấy ông ta thật là tự do, vượt ra khỏi cái gọI là chính trị. Ông ta rất thoải mái (worldly), rất quyến rũ, rất 'phi-chính trị' (apolitical). Với chúng tôi, ông đã 'vượt thoát' Cuộc Chiến Lạnh (transcended the Cold War).
Ông thuộc dòng, những nhà văn như Conrad, Beckett, Nabokov, Kundera... nổi tiếng trên thế giới, khi viết bằng ngôn ngữ thứ nhì. Đâu là lợi, là hại, khi viết giả tưởng (tiểu thuyết), không phải bằng tiếng mẹ đẻ"
-Khi bạn chuyển từ ngôn ngữ thứ nhất, qua thứ nhì, bạn bắt buộc phải trở thành lưu vong. Đây là điều kiện mang tính quyết định (positive). Thí dụ, bạn phải để lại sau lưng tất cả những 'bản kẽm mang tính bản địa' (native clichés), về phương diện ngôn ngữ, bạn đi vào một vùng đất còn trinh.
Đây là một kiểu tái sinh. (It's a kind of rebirth).
Jennifer Tran giới thiệu, chuyển ngữ.