Theo lịch sử ngày lễ Tạ Ơn tiên khởi đã được tổ chức ở một nơi vùng Đông Bắc Mỹ bởi những di dân đầu tiên đến nước này, những người Thanh giáo, một hệ phái của đạo Tin lành đã ly khai để được có tự do tôn giáo. Chiếc tầu Mayflower của họ đã đến Mỹ năm 1620, trên tầu chở 103 người. Họ thành lập một cộng đồng di dân thường trú đầu tiên ở nước này và để kỷ niệm nơi xuất xứ, họ đặt tên cho nơi định cư mới của họ là Plymouth, nay là một thành phố lớn ở tiểu bang Massachusetts. Khi mới đến họ đã phải trải qua một mùa đông vô cùng khắc nghiệt giữa cảnh bần hàn thiếu thốn mọi thứ, đến độ một nửa số di dân đã chết. Năm sau những người sống còn được mùa no đủ nên họ tổ chức lễ Tạ Ơn Chúa Trời. Thời đó Bắc Mỹ còn là những vùng hoang vu, mãi hơn một thế kỷ sau mới trở thành một nước độc lập với bản Tuyên ngôn năm 1776. Đến năm 1863, Tổng Thống Abraham Lincoln ra lệnh ngày Thứ Năm lần thứ bốn của tháng 11 là ngày lễ Tạ Ơn hàng năm trên toàn quốc.
Những người Thanh giáo năm xưa làm lễ Tạ ơn Thiên chúa là đúng, bất cứ ai dù không theo đạo Thiên chúa, nhưng nếu đã có đức tin tôn giáo được may mắn sống còn sau một cơn hoạn nạn khủng khiếp như vậy tất cũng phải cảm tạ các đấng thần linh cao cả trên Trời. Hoa Kỳ ngày nay đã trở thành một siêu cường thế giới nhờ những bàn tay xây dựng của những đợt di dân kế tiếp, bởi vậy lễ Tạ Ơn cũng là dịp tưởng niệm những di dân đầu tiên gần 4 thế kỷ trước. Đối với những người gốc Việt trong những đợt di tản dồn dập vào cuối thế kỷ 20, lễ Tạ Ơn càng có ý nghĩa thấm thía khi nghĩ đến đất nước này đã mở rộng tầm tay đón nhận họ sau ngày 30-4-75. Nhưng biến cố 11-9-01 đã khiến việc tiếp nhận di dân không dễ dàng như trước vì lý do an ninh của Mỹ. Người gốc Việt được may mắn vì vào thời điểm đó các đợt tị nạn ào ạt cũng đã chấm dứt, nên thấy nhớ lại những năm trước.
Tình cờ làm sao, Thứ Năm tuần qua, trong buổi lễ khánh thành Thư viện Tổng Thống thứ 42 Bill Clinton, tại Little Rock, Ark., người ta thấy sự hiện diện của đương kim TT George W. Bush và ba vị cựu Tổng Thống. Nếu tính từ thời điểm đợt di dân đầu tiên của người Việt đến Mỹ, cần phải kể đến cựu TT Gerald Ford. Nhưng ông Ford năm nay đã 90 tuổi không đến dự được, còn Tổng Thống Ronald Reagan đã từ trần mới đây. Vậy chỉ còn ba ông, Jimmy Carter, George H. W. Bush, phụ thân TT Bush hiện nay và Bill Clinton. Chúng tôi nhắc đến buổi lễ này không phải vì tòa thư viện đồ sộ bằng kính và thép trị giá 165 triệu Mỹ kim nhiều người đã thấy qua hình ảnh, mà vì những lời tuyên bố trong dịp này. Tổng Thống Bush nói tòa thư viện này “là một món quà tặng cho tương lai bởi một người vẫn luôn luôn tin tưởng ở tương lai và hôm nay chúng ta cám ơn ông đã yêu mến và phục vụ nước Mỹ”. Nhưng đặc biệt nhất, cựu TT George H. W. Bush, người đã bị Bill Clinton đánh bại trong cuộc bầu cử năm 1992, nói ông rất bực bội về tài năng chính trị của Clinton khi ông bị mất nhiệm kỳ II năm đó. Ông Bush cha tuyên bố: “Người ta phải nói rằng Bill Clinton là một trong số những chính trị gia có tài nhất của nước Mỹ thời hiện đại. Hãy tin tôi đi - tôi đã thấy rõ như vậy một cách thật đau lòng”. Giữa tràng cười rộ của cử tọa, ông tiếp: “Ông ấy làm cho thấy nó quá dễ và, ôi, tôi đã ghét ông vì vậy”. Những lời tuyên bố thật bộc trực, có khí phách anh hùng.
Bài diễn văn của cựu TT Clinton có đoạn nói: “Đối với tôi, một sự tượng trưng không phải chỉ là những gì tôi đã tìm cách thực hiện mà là những gì tôi muốn làm trong những ngày còn lại của cuộc đời tôi: xây dựng những cây cầu từ hôm qua cho đến ngày mai, xây dựng những cây cầu bắc qua các hố chia rẽ chủng tộc, tôn giáo, dòng giống, lợi tức và chính trị”. Tôi còn nhớ năm 1992, Clinton đưa ra chủ trương xây cây cầu từ thế kỷ 20 đến thế kỷ 21. Năm đó tôi vừa đến Mỹ nên có lời bình mộc mạc nhưng cũng có chút châm biếm, gọi ông là một “kỹ sư xây cầu” và hy vọng ông kỹ sư này xây cây cầu thật vững kẻo đổ thì rất phiền. Buổi lễ khánh thành diễn ra ở sân ngoài trời trong khuôn viên Thư viện giữa cơn mưa tầm tã. Dù vậy gần 30,000 người vẫn đội mưa đến dự. Clinton đứng trên bục có dù che, nhưng mớ tóc bồng của ông cũng xẹp vì nước mưa sau 2 tiếng đồng hồ buổi lễ. Và ông nói một câu thật cảm động: “Nếu bà mẹ tôi có mặt ở đây hôm nay, bà sẽ nhắc nhở tôi rằng mưa là ánh sáng ướt của mặt trời và tôi không nên than phiền về mưa bởi vì đất cũng cần mưa và ai đó cũng có thể được lợi vì mưa”.
Lời nói của Clinton làm tôi nhớ lại một câu da dao của nông dân Việt Nam trong cuốn Quốc văn Giáo khoa thư khoảng thập niên 20 thế kỷ trước: “Lậy Trời mưa xuống, Lấy nước tôi uống, Lấy ruộng tôi cầy, Lấy đầy bát cơm, Lấy rơm đun bếp”. Thật ngậm ngùi. Ước mơ của anh nông dân nghèo Việt Nam quá đơn giản. Nhưng đó không phải là tâm niệm của một người an phận thủ thường, nó làm bộc lộ ba nét đặc trưng của dân tộc tính Việt Nam: cần cù, kiên nhẫn và hiền lương. Anh không tham tài vật của ai, không đi chinh phục những mảnh đất xa xôi để làm giầu, nhưng vẫn sẵn sàng tự lực tự cường, phấn đấu chống nghịch cảnh để có một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Bill Clinton là một chính khách nhìn về tương lai nên ông hứa xây dựng nhiều cây cầu khác bắc qua những hố chia rẽ con người; có lẽ ông đã rút kinh nghiệm 12 năm qua trong đó có 8 năm giữ chức Tổng Thống. Chúng tôi không nghi ngờ tài xây dựng cầu của ông “kỹ sư”, nhưng qua năm thứ 5 của thế kỷ 21, chúng tôi cũng rút kinh nghiệm theo sát thời cuộc để nhắc nhở rằng có những quả bom vô hình có sức nổ ghê gớm vẫn hăm dọa phá sập những cây cầu vững chắc nhất. Những quả bom đó không ai nhìn thấy, nhưng chúng có những tên đáng sợ như tham vọng, cuồng tín, si mê và thù hận.