Trang Sử Việt: Trương Công Định
.
(Lời tâm tình: Bài viết về “Sử Việt” chỉ khái quát, không đi sâu từng chi tiết của mỗi nhân vật. Cuối mỗi bài viết, phần “Thiết nghĩ” nếu có chỉ là góp ý của tác giả, không ngoài mục đích làm sáng tỏ thêm về nội dung đã biên soạn. Trang Sử Việt luôn mong mỏi nhúm nhen tình tự dân tộc, niềm yêu thương quê hương và giữ gìn Việt ngữ cùng văn hóa Việt. Trang Sử Việt đăng trên Vietbao Online thứ Ba và thứ Sáu hằng tuần).
________________
TRƯƠNG CÔNG ĐỊNH
(1820 -1864)
.
Trương Công Định còn gọi Trương Định, quê phủ Bình Sơn, Quảng Ngãi. Cha là Lãnh binh Trương Cầm, từng là Hữu thủy Vệ uý ở Gia Định đời vua Thiệu Trị.
Năm 1844, ông theo cha vô Nam đến ở huyện Tân Hòa (nay Gò Công Đông). Ông có công khai hoang lập ấp với Nguyễn Tri Phương nên triều đình phong chức Quản cơ, do đó gọi là Quản Định.
.
.
Năm 1859, Pháp chiếm Gia Định, ông chiêu mộ Nghĩa quân đánh thắng Pháp ở Cây Mai, Thị Nghè. Ông tuyên bố “thà chết chứ không làm tôi tớ cho giặc”. Quân dân tôn xưng ông là: “Bình Tây Đại Nguyên Soái”. Với tài trí và lòng yêu nước nồng nàn của ông, đông đảo dân chúng đã cảm phục và hưởng ứng theo ông chống giặc Pháp.
.
.
Năm 1860, ông phối hợp với Nguyễn Tri Phương, phòng thủ đồn Kỳ Hòa. Khi Nguyễn Tri Phương rút về Biên Hoà, ông vẫn ở lại chiến đấu, triều đình phong chức Phó lãnh binh, ông đem quân về Mỹ Tho, Gò Công, Tân An, đánh du kích, gây cho giặc nhiều phen bị thiệt hại nặng.
Ngày 5-6-1862, triều đình Huế ký hòa ước đầu hàng Pháp, điều ông đến Phú Yên nhưng ông vẫn ở lại kiên cường chiến đấu.
.
.
Pháp thấy Nghĩa quân của ông đã gây cho chúng áp lực nặng nề, nên cử Thiếu tướng Bonard chỉ huy một lực lượng lính Pháp và lính lê dương tấn công Nghĩa quân tại Gò Công. Vũ khí của Nghĩa quân thô sơ và quân số ít ỏi nên ông cho rút về căn cứ ở chiến khu Bình Xuân để chỉnh đốn quân ngũ và dùng du kích chiến tiêu diệt giặc.
.
.
Pháp mua chuộc tên Việt gian Huỳnh Công Tấn là bộ hạ cũ của ông để ám hại ông. Tấn biết được thói quen và sự hoạt động của Nghĩa quân.
Pháp phong Tấn chức đội trưởng, Tấn mừng hí hửng, thực dân cho Tấn tháp tùng theo Đề đốc Pháp là Jaurès, Tấn dẫn lính đi trước mở đường, tiến vào căn cứ để tiêu diệt Nghĩa quân.
.
.
Vào tháng 2 năm 1863, quân Pháp tấn công vào Gò Công, đụng độ ác liệt, Tấn bị thương ở chân phải chở về Sài Gòn điều trị.
Sau đấy, ông thấy vũ khí giặc tối tân khó cầm cự lâu dài nên rút nghĩa quân về Biên Hoà.
Ngày 19-8-1864, Trương Định và khoảng 30 Nghĩa quân tâm phúc, từ chiến khu Bình Xuân về làng Gia Thuận gần sông Vàm Láng để quan sát địa thế. Tấn được Việt gian mật báo liền đem quân bao vây và tấn công, ông và nghĩa quân can trường chống trả giết được một số tên giặc; Nghĩa quân cũng bị hy sinh 12 người.
.
.
Ông và nghĩa quân đang kiên cường chiến đấu, sắp thoát được vòng vây thì quân Pháp lại tiếp viện đông đảo. Ông bị thương ở xương sống, để khỏi liên luỵ đến nghĩa quân, ông rút gươm tuẫn tiết tại trận. Viên Đại úy Pháp trực tiếp chỉ huy trận đánh, thán phục lòng can trường của Nghĩa quân, kêu gọi ngưng bắn và để 18 Nghĩa quân còn sống được tự do ra về. Nhưng các Nghĩa quân lại không chịu rời trận địa nếu không đem được thi hài của chủ soái về chôn cất thì quyết cùng tự sát theo chủ soái. Đại úy Pháp thán phục và đồng ý.
.
.
Trương Quyền là con của ông tiếp tục chiến đấu nhưng cũng hy sinh vì nước. Dân chúng vô cùng thương tiếc, đã lập đền thờ ở Quảng Ngãi là nơi sinh quán của ông, để tưởng nhớ cả hai “cha trung trinh, con hiếu hạnh”.
.
.
Nguyễn Đình Chiểu đã làm 12 bài thơ và 1 bài văn tế tiếc thương ông thống thiết, xin nêu 2 câu lưu tiết nghĩa:
Ngọn cờ ứng nghĩa, trời chưa bẻ
Quả ấn “Bình Tây” đất vội chôn!
.
.
*- Thiết nghĩ: Cuộc khởi nghĩa của Trương Định chống Pháp xâm lược, chỉ trong thời gian 5 năm (1859-1864), ông đã trở thành một trong những người thủ lĩnh phi thường, gây cho quân Pháp kinh hồn khiếp vía. Lòng son sắt của ông quyết giữ gìn quê hương đã điểm tô trang Sử Việt rực rỡ đời đời.
Lúc đầu, triều đình Huế ủng hộ kháng chiến của Trương Định, vào đời Tự Đức năm thứ 14 (1861), sử nhà Nguyễn ghi: “Trương Định am hiểu võ nghệ, dũng cảm, mưu lược. Thành Gia Định hữu sự, Định hưởng ứng việc nghĩa, chiêu mộ nghĩa binh được hơn 6.000 người, lại kiêm quản những đầu mục thân hào mộ việc nghĩa, lập được 18 cơ quân, luôn chống Pháp, thu được súng ống khí giới và đúc chế thêm để dùng, được bạt bổ làm Quản cơ lĩnh Phó Lãnh binh Gia Định”.
.
.
Nhưng kể từ ngày 5-6-1862, triều đình Huế ký hòa ước đầu hàng Pháp, sử nhà Nguyễn lại ghi: “Tháng 7 năm 1862, từ khi đã định hòa ước rồi, Ngài (Tự Đức) truyền dụ Nam Kỳ nghỉ binh và đòi Trương Định ra Phú Yên. Khi ấy trong các tỉnh Gia Định, Định Tường, Biên Hoà những người ứng nghĩa rủ nhau đoàn kết tôn Trương Định làm Đại đầu mục, xin được cho ra đánh. Đình thần nghị rằng: Bây giờ việc Bắc Kỳ đương khẩn mà Nam Kỳ chưa có cơ hội gì, xin giao Phan Thanh Giản hiểu dụ. Nhưng Trương Định đã lâu mà không chịu về cung chức, bị cách chức hàm”.
.
.
Sau khi vua Tự Đức ra lệnh Trương Định phải bãi binh! Vào tháng 2 năm 1863, ông đã thẳng thắn gửi thư đến các quan ở tỉnh Vĩnh Long, tỏ ý ly khai với triều đình nhu nhược: “Muốn trở lại y như xưa, dân chúng ba tỉnh yêu cầu chúng tôi đứng đầu khởi nghĩa, chúng tôi không thể làm gì được khác. Chúng tôi chuẩn bị chiến đấu vào hướng Đông cũng như hướng Tây, chúng tôi chống đối và chiến đấu. Chúng tôi sẽ đánh ngã bọn giặc cướp...”.
Rồi ông căn dặn Nghĩa quân: “Chúng ta thề sẽ đánh mãi và đánh không ngừng, khi ta thiếu tất cả sẽ bẻ nhánh cây làm cờ, lấy gậy gộc làm võ khí cho quân lính ta...”.
Kính phục lòng yêu nước nồng nàn của ông, hàng năm vào hai ngày 19 và 20 tháng 8 Dương lịch, tại Gò Công đồng bào tổ chức lễ tưởng niệm ông. Đây là một trong những lễ hội lớn ở miền Nam của nước ta, đồng bào ta luôn ngưỡng mộ các vị anh hùng của dân tộc.
.
Cảm phục: Trương Công Định
.
Trương Định, sắt son vẹn nghĩa tình!
Thiết tha non nước, trọn trung trinh!
Nghĩa quân, nhen nhúm tình dân tộc
Nòi giống, nấu nung nỗi nhục vinh!
Nhanh nhẹn tấn công, tiêu diệt giặc
Vững vàng gìn giữ, ngự phòng binh
Lẫy lừng kháng chiến, đời lưu luyến
Tuẫn tiết hào hùng, ghi khắc danh!
.
Nguyễn Lộc Yên
.
.
.
Gửi ý kiến của bạn