Thế nhưng một nền văn hóa dân tộc không phải là một nền văn hóa cô lập, nằm trong một cái hộp thép đóng kín. Nó phải mở ra để tiếp xúc với bên ngoài bởi vì nó có nhu cầu phong phú hóa để thích ứng với những bước tiến của cả loài người. Sự tiếp xúc đó là một định luật thiên nhiên khi loài người ngày càng nhiều trên hành tinh này, nhất là khi các tiến bộ về khoa học kỹ thuật làm cho sự giao tiếp giữa con người và con người ngày càng dễ dàng, mau lẹ hơn, qua các phương tiện chuyển vận và truyền thông. Đó cũng là một định luật trói buộc, không thi hành không được nếu muốn sống còn. Trong sự giao tiếp văn hóa này có một yếu tố then chốt. Văn hóa dân tộc nào mạnh vẫn giữ được bản sắc dân tộc, nó chỉ có lợi là nhờ đó mà phong phú thêm. Còn văn hóa dân tộc nào yếu là mất hết bản sắc mà thay đổi hết, trở thành một thứ văn hóa ngoại lai không có gốc dân tộc.
Trước những thực trạng đó, vào dịp năm mới đầu thế kỷ mới và trước Đại hội đảng kỳ 9, những người lãnh đạo Cộng sản ở Việt Nam bỗng thấy la lối, nói đến nguy cơ “văn hóa đầu độc”, ý muốn nói đến những văn hóa xấu từ bên ngoài đem vào đầu độc văn hóa trong nước. Sự thật việc này như thế nào" Đây không phải là chuyện mới lạ, vì từ ngày các ông Cộng sản Việt Nam chịu mở nắp cái hũ sắt của họ một chút để đón nhận đầu tư và buôn bán với bên ngoài, gọi là đổi mới kinh tế, đã nhiều lần các ông hô hoán hiểm họa văn hóa đồi trụy, văn hóa ngoại lai và bây giờ đổi mới thêm một chút nói đến văn hóa đầu độc. Hiển nhiên những người Cộng sản Việt Nam đã không tin ở sức mạnh văn hóa dân tộc Việt Nam.
Từ thời xa xưa trong lịch sử, văn hóa dân tộc Việt Nam đã tiếp xúc với văn hóa từ bên ngoài đem tới, kể cả khoảng thời gian bị “văn hóa ngoại lai” ngự trị như 1,000 năm đô hộ của người Tầu, văn hóa dân tộc không mất mà chỉ có phong phú thêm. Những nền văn hóa khác từ bên bên ngoài đưa tới không nhất thiết phải là xấu, nếu xấu nó không thể nào tồn tại. Nhưng nền văn hóa nào cũng có mặt xấu mặt tốt, nhất là những khía cạnh thích hợp hay không thích hợp với dân tộc tính Việt Nam. Những nền văn hóa mạnh của một dân tộc luôn luôn biết chọn lựa, đẩy ra những cái xấu và thu lấy cái tốt, chuyển biến nó cho thích hợp với dân tộc tính để làm phong phú thêm văn hóa của mình. Văn hóa có một dạng dễ nhận nhất là phương tiện để truyền bá, lưu lại cho các thế hệ sau. Đó là ngôn ngữ và văn tự. Không có ngôn ngữ và văn tự, không một nền văn hóa nào có thể tồn tại. Trong một ngàn năm độ hộ của người Tầu, ngôn ngữ Việt Nam vẫn còn, thời đó văn tự là chữ Hán nhưng được chuyển thành âm Việt để làm phong phú thêm tiếng Việt và khi đã thành một ngôn ngữ Hán-Việt truyền bá đủ rộng, Nho gia của chúng ta đã tự phát minh ra chữ Nôm của riêng người Việt sử dụng. Đến khi tiếp xúc với thế giới Tây phương vào thế kỷ 16, rồi đến thời kỳ do thực dân Pháp cai trị, chúng ta có văn tự cải tiến thành chữ quốc ngữ theo mẫu tự La-tinh, làm tiếng Việt phong phú thêm, dễ phổ cập hơn, nhưng đạo lý cổ truyền, phong tục tập quán vẫn không bị mai một, bản sắc dân tộc vẫn còn đó.
Vậy các ông Cộng sản sợ cái gì" Hãy nói đến lúc đầu mà những người sống ở miền Nam đều biết khi những nguời Cộng sản chiếm được cả nước. Ngay từ buổi đầu đã có phong trào tiêu diệt những sách báo tiếng nước ngoài của chế độ cũ, bị gán cho nhãn hiệu là văn hóa “vọng ngoại”. Từng đoàn “cách mạng 30-4”, nghĩa là những tay xung phong làm cách mạng vào giờ thứ 24, do bọn “nằm vùng” lãnh đạo kéo đi khám xét các gia đình bị coi là thành phần trí thức. Tin “cách mạng” này lan ra cả thành phố nhanh như thuốc súng cháy, dân chúng sợ hãi tìm kiếm trong nhà mọi thứ sách báo, nhất là sách báo ngoại ngữ, tư động đem thiêu hủy hết, vì họ sợ vạ lây. Biết bao sách học quý giá bị hủy hoại trong những ngày này. Người ta bảo vì những cán bộ mới ở rừng về nên đầu óc còn ngu muội. Nhưng họ không có cấp cao chỉ đạo hay sao" Nhất là trong đảng có cả một guồng máy vĩ đại có nhiều cấp gọi là “Văn hóa Tư tưởng”. Phải nói cho đúng là cả cái bộ máy này cũng ngu muội nốt.
Điều mỉa mai là ban Tư tưởng-Văn hóa thù ghét văn hóa ngoại lai vì sợ dân chúng bị đầu độc, nhưng chính đảng của họ đã đem văn hóa ngoại lai vào nước và bắt dân chúng phải tôn thờ. Chủ nghĩa cộng sản không có gốc Việt Nam, nó được đem từ bên ngoài vào. Đó không phải là văn hóa ngoại lai hay sao" Tệ hại hơn nữa, dân chúng không được lựa chọn tốt xấu mà bắt buộc phải theo đúng nguyên bản từ đầu đến cuối giáo điều cương lĩnh văn hóa Mác-Lê, không ai được phép sửa đổi, kể cả những người cộng sản. Chính đảng đã đem văn hóa ngoại lai về đầu độc dân tộc chớ không còn ai khác.
Thế nhưng đảng Cộng sản đã thất bại trong mưu toan đầu độc này, bởi vì văn hóa dân tộc Việt Nam có sức đề kháng rất mạnh. Thất bại trong tư tưởng, thất bại trong hiện thực vì cái văn hóa ngoại lai đó đưa nền kinh tế đến chỗ dãy chết nên đảng phải “đổi mới” để tự cứu. Không ai, kể cả những người Cộng sản, có thể đầu độc văn hóa dân tộc Việt Nam.