Saigon là cựu thủ đô của VN Cộng hòa khi xưa, thủ đô kinh tế cả nước bây giờ, nơi xuất phát và giương cao ngọn cờ đầu đấu tranh cho tự do, tôn giáo và dần dần phát triển thành đấu tranh cho tự do, dân chủ, nhân quyền VN. Ngay tại công trường lớn, trung tâm của thành phố, quận Nhứt nội thành, tại Nhà Thờ Đức Bà còn là Vương Cung Thánh Đường Công Giáo VN. Bất thần và bất ngờ hàng chục ngàn người Saigon bất phân lương giáo tập trung đến xem và nguyện cầu trước Tượng Đức Mẹ khóc. Không bao lâu sau, tại một quận ngoại thành, nhưng cũng trước Tượng Đức Mẹ của Nhà Thờ Quận Gò Vấp, hàng trăm người lương giáo khác tụ họp nguyện cầu. Công an, cảnh sát bên ngoài giữ trật tự, không dám đàn áp, càn quét. Linh mục bên trong khan cổ rao giảng không phải phép lạ, yêu cầu giải tán. Quần chúng im lặng không tin lời của Linh mục, bất động, tiếp tục nguyện cầu tới khuya. Càng về khuya càng đông. Đó là những sự kiện hiện thực, có hình giá trị hàng nghìn chữ, biến thành một hiện tượng mới rất đáng chú ý và phân tích.
Một, trên phương diện kỹ thuật huy động quần chúng, phải nói đây là một cú "bậc thầy" (coup de maitre). Xin để một bên hiện tượng Đức Mẹ Khóc gây chấn động dân Saigon có phải là một phép lạ hay không thuộc tín lý và thuộc phạm vi thẩm quyền của những nhà thần học Công giáo La Mã. Nhưng đứng trên phương diện xã hội học, chánh trị học, dân chúng tụ họp hàng chục người ngay trung tâm Saigon, trong thời CS kiểm soát chặt người dân, dù vô tình thế mấy cũng phải đặt câu hỏi: cái gì đây; cái gì ở đằng sau hiện tượng ấy. Việc tạo tin và tung tin đúng thời điểm đã tạo thành một tác động tâm lý vô cùng lợi hại.
Vào buổi tối, người Saigon rảnh rổi, trời mát hay ra hứng mát ngoài đường. Vào mùa gần Noel, Đức Mẹ là tâm tư và hình ảnh đến với lòng người. Giữa lúc hình ảnh và hiện thân của ba lần Bắc thuộc là Chủ Tịch TC Hồ Cẩm Đào đến VN với lời đồn đoán VN có thể mất đất, mất biển nữa, cụ thể là mất Vịnh Cam Ranh, tin Đức Mẹ Maria khóc cho VN sẽ trở thành tin vô cùng nhậy cảm.
Hai, trên phương diện chiến thuật chiến tranh tâm lý, đối với quần chúng thầm lặng, phải nói đây là một cuộc thực tập làm dân chúng vượt nỗi sợ CS. Một nỗi sợ không hay khó rời vì CS đã dồn nén, đe dọa "làm kinh tế" có tội còn " chiếu cố", chớ "làm chánh trị" có tội thì "trời cũng không cứu được". Hơn nửa thế kỷ ở Miền Bắc và một phần ba thế kỷ ở Miền Nam, CS đã làm nỗi sợ "làm chánh trị" không rời người dân, đông lạnh ý thức, lương tâm chánh trị của xã hội VN, làm tê liệt quyền tự do, đi lại, tụ họp của người dân. Rất cần thiết "tạo điều kiện" để dân chúng tập họp đông đảo một lần, để từ đó ăn quen, nhịn không quen, lần sau ít sợ hơn lần trước, vì thấy kỳ rồi không sao thì kỳ tới cũng chẳng sao, người khác làm được mình làm được, thì cứ làm "tới bến" như nói dân Saigon thường nói.
Còn đối với lực lượng cưỡng hành luật pháp như công an, cảnh sát chìm nổi, đây là một cú thăm dò rất cần thiết, nắn gân thử xem sao. . Yếu tố thời cơ và bất ngờ đã làm lực lượng công an cảnh sát hoàn toàn bị động. Thời kỳ trù bị đại hội đảng thứ 10, thời gian Anh Cả Đỏ đến viếng đòi hỏi CS Hà Nội phải chứng tỏ "bốn phương phẳng lặng, hai kinh vững vàng." Một cuộc đàn áp, càn quét hại nhiều hơn lợi.
Ba, trên phương diện phương pháp mới xem qua người ta liên tưởng đến cách làm của CIA. Người ta không khỏi nhớ đến Đại Tá Lansdale một chuyên viên CIA từng là vua tạo và tung tin. Tung tin để người Miền Bắc chú ý đến thời sự, cảm thấy phải gần gũi nhau, để tổ chức di cư cho dễ. Tung tin "Nguyễn đi" khi Thủ Tướng Ngô Đình Diệm chuẩn bị truất phế Vua Bảo Đại để lập nền cộng hòa. Tung tin "Nguyễn lại về" sau thời Tổng Thống Diệm bị đảo chánh, và bất ổn "chỉnh lý" giúp cho Tướng Nguyễn Văn Thiệu. Khi Phật giáo đứng lên thời Ô Diệm cũng như thời CS, thường nghe câu "Giặc đụng Bồ Đề thì giặc phải tan". Sấm Trạng Trình có những câu dễ liên kết với với thời cuộc thường được đem ra dùng nhiều lần.
Bốn và sau cùng. Còn quá sớm và chưa có thể biết chắc ai làm cú vừa tâm lý chiến vừa chiến tranh chánh trị vận dụng quần chúng thành công vượt mức này. Nhưng có một điều biết chắc như đinh đóng cột là, nhứt định có tổ chức đối kháng, đối lập, đối địch với CS Hà Nội ở Saigon. Làm việc này có tính toán, có tổ chức hẳn hòi. Hơi hám có mùi CIA hay theo kiểu CIA. Nhưng không phải chỉ riêng CIA biết làm, mà không thiếu gì người Việt làm còn giỏi hơn CIA nữa vì làm có tâm huyết VN hơn, am hiểu nhân tình thế thái người Việt và tình hình VN hơn. Nên có thể CIA làm để giúp cho Phe CS Đổi Mới thân Mỹ Miền Nam. Có thể do chính Phe CS Đổi Mới thân Mỹ Miền Nam làm để buộc CS Hà Nội không để Chủ Tịch TC vào Saigon như đã thấy sau chuyến đi, để không bị xâm nhập an toàn khu, căn cứ địa. Và quan trọng nhứt là răn đe CS Hà Nội , "Đừng có giỡn mặt với dân Saigon". Họ có thể là "dòng thác cách mạnh nhân dân", triều dâng, thác đổ như cách mạng nhung, da cam, hoa "uất kim hương" thời Liên xô hay thời hậu CS.
Nhưng dù CIA hay phe CS Đổi Mới Miền Nam thân Mỹ làm, cái lợi chiến thuật, chiến lược trường kỳ cũng thuộc về thành phần và tổ chức chống Cộng nói chung, trong bóng tối, âm thầm mưu hoạch, vận dụng dân chúng lật đổ nhà cầm quyền CS nói chung. Cái lợi của cuộc tập dợt, thao diễn để người dân vượt khỏi nỗi sợ CS, thử sức đề kháng của công an, cảnh sát CS. Giữa lúc vì tình thế đối ngoại hai thế lực long tranh hổ đấu của Mỹ với TC ở VN, vì thế lực nhiều phe phái Bảo Thủ, Cấp Tiến, thân Mỹ thân Tàu, phe Nam, phe Bắc tranh giành quyền lực trong nội bộ Đảng, và vì tính "đột xuất" bất thần của hiện tượng, cánh tay mặt của chuyên chính vô sản của Đảng trở thành tê cứng, bất động. Lực lượng này phản ứng giống như quân đội các nước CS Đông Âu từ trạng thái dè dặt "chờ và xem" tình hình sang thái độ bất động, rồi hành động ngã theo lực lượng cách mạng của người dân, ra tay siết cổ chết nhà cầm quyền độc tài, thay vì thi hành lịnh bắn vào dân tụ họp, biểu tình, trong đó có thân nhân gia đình, bè bạn của mình. Bề ngoài, Quân đội và lực lượng an ninh khôn khéo tỏ ra như chờ lịnh chính thống, nhưng bề trong chờ xem tình hình ngã ngũ ra sao để nghiêng qua hay ngã lại hầu tự cứu như quân đội ở các nước CS Đông Âu trước các cuộc cách mạng lật đổ, của quần chúng.