HỒI THỨ NĂM MƯƠI BA<"xml:namespace prefix = o ns = "urn:schemas-microsoft-com:office:office" />
<"xml:namespace prefix = st1 ns = "urn:schemas-microsoft-com:office:smarttags" />
Dã Tượng đứng theo dương cung tấn, nạp tên, kéo mạnh. Cây cung uốn cong như ánh trăng mùng ba, rồi chàng buông tên. Mũi tên xé gió rít lên, bay sang bên kia đường trúng vào cây gạo. Bộpmột tiếng mũi tên ngập tới hơn gang.
Cử tọa vỗ tay hoan hô hết tràng này đến tràng khác :
– Cậu này khỏe thực, lại to lớn thế kia thì giết Mông cổ dễ như chơi.
– Ôi ! Vừa khỏe, vừa đẹp thế kia thì xứng làm chồng Thanh Ngoan.
Có nhiều tiếng la hoảng:
– Ôi con ngựa điên xổ chuồng.
– Tránh ra! Tránh ra! Chết!!!
Một con ngựa không yên cương lao vào đám đông, tiếng người la hét inh ỏi. Dã Tượng tung mình ra đón trước đầu ngựa. Người ta hét:
– Tránh ra! Chớ dại! Ngựa dẵm chết bây giờ.
Con ngựa chồm hai vó trước bổ vào đầu Dã Tượng. Người người nhắm mắt lại, không dám nhìn chàng bị ngựa đạp chết. Dã Tượng dùng lộ thứ nhì trong Đảo mã cửu lộ, tên Mã hung bất kham. Chàng xuống trung bình tấn, chụp hai chân trước ngựa, rồi giữ cứng. Con ngựa hí inh ỏi, dặm chân sau, quẫy đuôi. Nó hí thêm mấy tiếng, cũng không thoát khỏi tay Dã Tượng. Dã Tượng buông chân nó ra. Nó hí râm ran rồi nhảy tới. Dã Tượng chụp đuôi nó ghì chặt. Nó cố sức cào chân xuống đất, vọt đi, nhưng vô ích. Sau nửa khắc, nó đứng im thở phì phò rồi vẫy đuôi cúi đầu tỏ ý phục tùng.
Có hai kị mã phi từ xa tới, thấy Dã Tượng đã kiềm chế được con ngựa thì mừng lắm:
– Cảm ơn dũng sĩ.
Vương phi ra khỏi quán, dùng lời lẽ vương giả trách cứ hai kị mã:
– Phải chăng con ngựa hung dữ này thuộc quyền hai anh" Nó đạp ba người đàn bà bị thương, làm đổ nồi bún ốc của
Hai kị mã thấy một thiếu phụ nhan sắc khuynh quốc, lưng đeo kiếm, thì biết đây là người có lai lịch. Một người cung tay:
– Xin nữ hiệp dungthứ. Cách đây hơn tháng, chúng tôi mua con ngựa hoang này từ trấn Lạng sơn, đóng cũi mang về. Chủ của nó nói rằng, họ gặp nó khi đi săn. Họ đặt bẫy bắt được. Trong năm tháng liền, những kị mã giỏi nhất cũng không chinh phục được nó. Suốt hai tháng qua, chúng tôi dùng đủ phương pháp trị mã, mà nó vẫn không thuần. Sáng nay, nó vượt hàng rào bỏ chạy. Chúng tôi phi ngựa đuổi mà không kịp.
Một kị mã khác nói:
– Chúng tôi xin bồi thường cho cô hàng bún ốc, lại xin chữa trị thương tích cho người bị hại.
Một kị mã nói với Dã Tượng:
– Thưa tráng sĩ, những con ngựa chứng, rất khó khuất phục nó. Khi một người khuất phục được nó thì chỉ người ấy làm chủ nó được thôi. Chúng tôi xin tặng tráng sĩ con ngựa này.
Dã Tượng định chối, thì Vũ Uy vương phẩy tay:
– Con cảm ơn nhị vị cho ngựa đi.
Dã Tượng chắp tay:
– Đa tạ!
Một kị mã lấy bộ yên cương của ngựa mình đang cỡi nói với Dã Tượng:
– Nó đã khuất phục tráng sĩ. Chỉ tráng sĩ mới đặt yên cương lên nó được mà thôi.
Dã Tượng lĩnh yên cương, đặt lên con hoang mã, rồi vọt mình lên lưng nó. Nó hí lên một tiếng, hướng theo con đường cái quan lao như bay. Hơn khắc sau Dã Tượng trở về, chàng vuốt lưng con ngựa, rồi nói với vương phi:
– Xin thím đặt tên cho nó.
– Cháu được ngựa trên bến Bắc ngạn vậy thím đặt cho nó tên là Bắc mã.
Nho Lâm suýt xoa:
– Thanh Nga treo bảng tuyển phu đã sáu ngày, trước sau có hơn ba mươi người ứng tuyển, mà không ai có nội lực như tráng sĩ đây.
Mọi người trở vào trong quán văn Thiên thư. Vương phi chỉ vào vương, Tạ Quốc Ninh:
– Hai vị này là sư bá, sư phụ của tráng sĩ, dĩ nhiên công lực mạnh hơn y nữa. Coi như cả ba người đều trúng cách. Thế còn có thứ ba"
Nho Lâm chỉ lên bàn thờ. Cạnh lư hương, có bức tranh thêu Hai bà Trưng cỡi voi đang đuổi Tô Định, dưới bức tranh có cuốn sách, gáy mạ vàng óng ánh, bìa viết chữ triện rất đẹp Lĩnh Nam mật sử, và một cái hộp. Nho Lâm cầm cuốn sách :
– Có thứ ba là phải thông hiểu quốc sử. Đây là bộ sử chép về cuộc khởi binh của vua Trưng và 162
Vương phi Ý Ninh thấy cuộc tuyển phu thực ý nghĩa, thực rõ ràng. Phi mỉm cười:
– Hay! Hồi còn theo học ở Thần quang tự, chị em chúng tôi thường dùng bộ sách này để xin xâm, linh ứng kỳ lạ. Để tôi xin một quẻ.
Phi cầm 5 đồng tiền bỏ vào chiếc hộp gỗ có khóa. Hai tay phi cầm bộ sử đưa lên ngang mày, khấn:
– Tấu lạy vua Bà! Tấu lạy chư vị
Phi bốc một xâm trong hộp, rồi mở ra, trong có bốn câu thơ:
Sinh vi lương tướng, tử vi thần,
Vạn cổ cương thường hệ thử nhân.
Loa địa song đôi, thu nguyệt ảnh,
Anh hùng liệt nữ tướng quân phần.
Thanh Nga cầm phách gõ, các nhạc công cùng tấu nhạc, nàng ngâm bốn câu thơ xong, chuyển sang hát chầu văn bằng tiếng Việt:
Sống là tướng giỏi, thác làm thần,
Vạn đại cương thường nặng tấm thân.
Hai bóng thành Loa trăng thu sáng.
Anh hùng liệt nữ mộ nghìn năm.
Nho Lâm hỏi:
– Quý khách có biết xuất xứ hai câu thơ trên không"
Ý Ninh mỉm cười:
– Nếu tôi trả lời đúng, thì tôi có đượcThanh Nga không" Thanh Nga xinh thế kia, tôi là gái không làm chồng nàng được thì tôi tuyển làm con, rồi tìm anh hùng mà gả.
Một bà già cười :
– Coi tướng mạo, hành trạng của phu nhân thì phu nhân thuộc người có lai lịch. Nhưng tuổi của phu nhân e chưa quá hai mươi, sao phu nhân có thể là mẹ Thanh Nga đã 18 tuổi. Không lẽ 2 tuổi phu nhân đã sinh con "
Cả quán vỗ tay cổ võ cho lời của bà già.
– Vậy thì tôi nhận làm em gái cũng chả sao !
Nhưng Thanh Nga lễ phép chắp tay hướng bà già :
– Thưa bà xưa nay chữ cha-mẹ có nhiều ý nghĩa. Người sinh ra ta là cha mẹ về thể xác. Người không sinh ra ta, nhưng có công dưỡng dục thì là cha mẹ chín chữ cù lao. Người cứu thoát ta trong hoạn nạn chín chết một sống là cha mẹ tái tạo. Người đem tâm não ra, truyền hiểu biết cho ta là cha mẹ trí tuệ, còn gọi là thầy. Theo Tam cương thầy đứng thứ nhì sau đức vua.
Phi mỉm cười, giảng :
– Bốn câu thơ này chép trong truyện của Bắc bình
Mặt Nho Lâm không vui :
– Cứ như quẻ này thì phu nhân và trượng phu đang trên đường mưu đại sự cho nước. Công sẽ thành, danh sẽ toại. Nhưng cuối cùng sự nghiệp không trọn vẹn.
Vương hỏi :
– Không trọn vẹn, có nghĩa là mưu sự không thành "
– Ý tôi không nói vậy. Ý tôi muốn nói rằng quý khách và phu nhân sẽ thành công. Nhưng cuối cùng cả hai sẽ tuẫn quốc như Bắc bình vương và vương phi. Hai vị sống làm tướng giỏi, chết thành thần. Anh linh vạn vạn năm sau dân chúng còn thờ kính, tưởng nhớ huân công.
Vũ Uy vương là một đại anh hùng thời Đông A, nghe Nho Lâm đoán quẻ xâm như vậy hùng khí bốc dậy, vương nhìn vương phi :
– Trước trận giặc vừa qua, Huệ Túc phu nhân từng tính số Tử vi rằng Phạm Cụ Trích, Trần Tử Đức sẽ vị quốc vong thân. Hai người từng hãnh diện mà ra trận. Nay hai người đã thành thần. Làm trai Đại Việt, chỉ sợ không có tài, không có dịp xả thân cứu nước mà thôi. Sau này chúng ta có vị quốc vong thân thì là điều cầu mà không được.
Nho Lâm hướng Tạ Quốc Ninh :
– Xin mời tiên sinh xin một quẻ.
Hầu sửa y phục ngay ngắn, bỏ tiền vào hộp, rồi cầm bộ sách lên khấn :
– Tấu lạy Hoàng đế bệ hạ. Kính chư vị
Ông rút ra một xâm. Ông không muốn đọc, ông trao cho Thanh Nga. Thanh Nga cầm phách đánh nhịp, nàng cất tiếng hát, lập tức năm nhạc công cùng hòa theo:
Nhất thi khảng khái anh hùng lệ,
Bách chiến sơn hà, cố quốc tâm.
Hết hai câu thơ Hán, nàng ca sang tiếng Việt:
Anh hùng khẳng khái đôi giòng lệ,
Bách chiến một lòng với nước non.
Tạ Quốc Ninh khen:
– Cô hát đã hay, lại học giỏi. Cô dịch sát ý, giọng hát còn tiết ra được tình ý sâu sa của tác giả.
Nho Lâm hỏi:
– Quý khách có biết xuất xứ hai câu thơ trên không"
Tạ Quốc Ninh gật đầu :
– Hai câu thơ này xuất xứ trong truyện Hổ Nha đại tướng quân. Tên thực của ngài là Đào Hiển Hiệu. Khi ngài vừa cưới vợ được ba ngày thì phải lên đường tòng chinh Trung nguyên. Phu nhân của ngài là
Thanh Nga, cầm dùi gõ phách. Các nhạc công tấu nhạc, nàng hát chầu văn bài Cô Sáu.
Nho Lâm giải:
– Cứ như quẻ này thì quý khách cùng phu nhân vừa làm lễ vừa thành hôn xong, thì do quốc sự phải phân ly. Hiện nay quý khách đang giữ trọng trách đức vua trao cho. Chiến thắng đang chờ đón quý khách. Quý khách chỉ gặp lại phu nhân trong lúc tử biệt sinh ly như ngài Đào Hiển Hiệu và phu nhân
Nghe Nho Lâm giải, Tạ Quốc Ninh đau nhói trong tim. Hình ảnh Hoàng Hoa tươi như hoa, trong nụ cười lại hiện ra. Ông nghĩ thầm :
– Nếu mình được ôm nàng một lầntrong tay như ngài Đào Hiển Hiệu ôm phu nhân
Vũ Uy vương bảo Dã Tượng:
– Con cũng xin một quẻ, dù không được Thanh Nga, ít ra cũng biết tương lai ra sao"
Dã Tượng móc trong túi ra một xâu tiền, chàng bỏ cả vào thùng, rồi cầm bộ sử đưa ngang mày khấn:
– Tấu lậy vua Bà, tấu lậy chư vị
Chàng thò tay vào hộp bốc một thăm, mở ra, trong thăm có hai câu thơ, Dã Tượng đọc được, nhưng không hiểu hết ý nghĩa, chàng đưa cho Thanh Nga. Thanh Nga đọc :
Đức bác thánh văn truyền Việt địa,
Uy dương thần vũ trấn Nam thiên.
Thanh Nga gõ phách, các nhạc công cùng tấu lên. Thanh Nga ca hai câu thơ Hán rồi bắt sang ca hai câu bằng tiếng Việt:
Trời Nam đức trải khắp nơi,
Oai danh vạn đại cùng người Việt linh.
Dã Tượng là đấng anh hùng thời Đông A, chàng không hề xấu hổ việc mình ít học. Chàng chắp tay vái Thanh Nga:
– Quốc Kinh này mồ côi cha mẹ từ thủa nhỏ, không được học. Lớn lên đi chăn trâu, cắt cỏ. Gần đây được một vị danh vọng cực lớn nhận làm con nuôi. Vì phải theo cha nuôi đuổi giặc, nên không thuộc quốc sử. Tôi không biết hai câu thơ này ai làm, làm trong trường hợp nào. Tôi xin chịu thua.
Vương phi Ý Ninh chỉ vào Tạ Quốc Ninh an ủi Dã Tượng:
– Con không nên nói lời bi phẫn như thế! Anh hùng đâu quản xuất thân. Trước con chưa được học quốc sử thì nay con đang học mà. Con đã có thầy rồi. Thầy sẽ dạy con. Chú thím sẽ dạy con. Huống hồ con đã lập đại công với Xã tắc. Con cưới công chúa cũng xứng, chứ đừng nói là Thanh Nga.
Dã Tượng chắp tay hướng vương phi:
– Đa tạ thím đã cho con lời vàng ngọc.
Vương phi giảng:
– Hai câu thơ này nói về công nghiệp của đức thánh Văn thành, Võ đức Long biên công. Tục danh của ngài là Nguyễn Tam Trinh. Ngài là một trong Tam công triều Lĩnh Nam. Ngài cũng là sáng tổ môn vật. Khi ngài được lệnh trấn thủ khu chiến Trường sa, hồ Động đình; Mã Viện đem đại quân tràn ngập, ngài tử chiến. Hai câu thơ trên là hai câu đối tại đền thờ ngài ở thôn Mai động, phủ Thọ xương, ngoài thành Thăng long. (Nay 2001 vẫn còn)
– Đa tạ thím dã giảng cho con. Hồi còn chăn trâu, cắt cỏ bọn con thường đến lễ ở ngôi đền nay. Nhưng con không biết đền thờ vị thánh nào.
Nho Lâm cầm bộ sử, nhìn Dã Tượng:
– Cứ như quẻ xâm này, thì sự nghiệp của tráng sĩ sẽ thực vĩ đại: dùng thần võ trấn Nam thiên, trăm họ đất Việt được nhờ huân công của tráng sĩ. Người người cúi đầu bái phục, mà trăm năm sau, nghìn năm sau được thờ kính. Tôi nghĩ, tráng sĩ nên tòng quân giữ nước ngay từ bây giờ thì vừa.
Sứ đoàn nhìn nhau như cùng nhủ thầm: Nho Lâm giải quẻ xâm này thực hay.
Đến đó một Kị mã bước vào khoanh tay hành lễ với Dã Tượng:
– Trình Đô Thống, tất cả xe, ngựa đều đã sang sông. Xin Đô thống cho lệnh.
– Được rồi, chúng ta sẽ độ giang ngay.
Từ Nho Lâm, Thanh Ngoan đến mọi người trong quán đều kinh ngạc: thì ra tráng sĩ này đã ở trong quân ngũ, hàm tới Đô thống. Chợt nhớ ra điều gì, Nho Lâm hỏi vương phi Ý Ninh:
– Thưa phu nhân, tiểu nhân nghe nói trong trận giặc vừa qua có hai mươi Ngưu tướng, mười tám Ngạc tướng. Tất cả đều là thiếu niên, làm cho Lôi kị Mông cổ kinh hồn táng đởm. Sau khi giặc tan, Nguyên Phong hoàng đế phong cho tất cả các Ngưu tướng, Ngạc tướng lĩnh chức Vệ úy, hàm Tá lĩnh. Riêng tướng có công nhất trong Ngưu tướng được đức vua ban cho mỹ danh Dã Tượng. Tướng có công nhất trong Ngạc tướng dược ban mỹ danh Yết Kiêu. Cả hai được phong hàm Đô thống, lại được Hưng Đạo vương nhận làm con nuôi. Ngài cho Dã Tuợng tên Trần Quốc Kinh, Yết Kiêu tên Trần Quốc Vĩ. Vị Đô thống có thể lực vĩ đại này hẳn là Dã Tượng đây"
– Đúng như anh nói.
Vương phi đáp.
Tất cả mọi người trong quán đều đứng dậy chắp tay hướng Dã Tượng:
– Chúng tôi quả có phúc, hôm nay được bái kiến
Dã Tượng đáp lễ:
– Không dám. Khi nước có giặc thì già, trẻ, trai, gái đều phải lăn mình vào chốn gươm đao, tên đạn; hy sinh mạng sống bảo vệ dất tổ.
Nho Lâm nói với Dã Tượng:
– Thưa tráng sĩ, kính Đô thống, bái người là anh hùng thời Đông A! Huân công của Đô thống trong bẩy trận vừa qua, quả thực vỹ đại, khắp đất nước này ai cũng khâm phục. Hôm nay anh hùng qua đây, dự cuộc tuyển phu của Thanh Ngoan. Chúng tôi vô cùng hãnh diện thưa rằng chỉ cần chiến công một trận Bình lệ nguyên, anh hùng cũng xứng đáng làm chồng Thanh Nga rồi.
Tuy là ca nhi lừng danh, từng tiếp xúc với hằng mấy chục người trẻ xin ứng tuyển, nhưng những lời nói của Nho Lâm, cũng làm cho Thanh Nga cúi đầu e thẹn, liếc mắt nhìn Dã Tượng, lòng xao xuyến.
Dã Tượng hiên ngang chỉ vương, vương phi nói với Thanh Nga:
– Nếu Dã Tượng tôi tìm vợ, thì e trên thế gian này không ai hơn Thanh Nga. Đúng lý, tôi phải nhất bộ, nhất báitới nhà Thanh Nga cầu xin. Nhưng Thanh Nga ơi, đất nước mình vừa sạch bóng quân thù. Thế nhưng giặc vẫn dang ngấp nghé tại biên cương. Dã Tượng này đang theo chú thím vì dân làm truyện vá trời, ngắn thì ít ra vài năm, dài có khi hàng chục năm. Biết đâu cả đời. Nên nào dám nghĩ truyện thê nhi. Vì vậy xin đa tạ chùm hoa đào Thanh Nga tặng cho tôi.
Nho Lâm chắp tay:
– Thưa Đô thống, chỉ mong Đô thống đính ước một lời với Thanh Nga cũng đủ. Thanh Nga mới 18 tuổi mà. Thanh Nga sẽ đợi Đô thống, cho đến khi Đô thống đeo gươm chiến thắng trở về.
– Một lời hứa như đinh đóng cột. Vì vậy tôi không dám hứa. Thanh Nga xinh đẹp thế này, lỡ ra tôi đi rồi vị quốc vong thân thì tội cho nàng quá.
Thanh Nga ngửa mặt nhìn lên bầu trời xuân, từng cụm mây trắng đang trôi lang thang. Nàng cất tiếng hát:
Con cò bay lả bay la,
Bay ra ruộng lúa, bay vào Đồng đăng.
Đồng đăng có phố Kỳ lừa,
Có nàng Tô thị, có chùa Tam thanh.
Ai lên phố Lạng cùng anh,
Tiếc công bác mẹ sinh thành ra em.
Tay cầm bầu rượu nắm nem,
Mải vui quên hết lời em dăn dò,
Gánh vàng đi đổ sông Ngô,
Đêm đêm tơ tưởng đi mò sông Thương.
Bài hát hết mà Thanh Nga như người lên đồng, nàng nhập vào lời ca, nét hoa hiện rõ vẻ buồn man mác. Dã Tượng cũng cảm thấy cái buồn theo nắng xuân nhập vào người. Chàng hỏi Vũ Uy vương phi:
– Thưa thím bài hát này con được nghe Xẩm hát trong những đêm đập lúa vụ mùa vừa qua. Nhưng con không hiểu hết ý nghĩa.
Vương phi đưa mắt nhìn Tạ Quốc Ninh, hầu giảng:
– Đây là bài hát bình dân, xuất hiện vào thời Anh vũ chiêu thắng (1075-1077)đời vua Lý Nhân Tông, thuật lại mối diễm tình của một chinh phụ họ Tô tại trấn Lạng sơn. Bấy giờ vua còn nhỏ, mới chín tuổi, Linh Nhân hoàng thái hậu (Ỷ Lan)cầm quyền. Bên Trung nguyên vua Tống Thần Tông dùng Tân pháp của Tể tướng
<"xml:namespace prefix = v ns = "urn:schemas-microsoft-com:vml" />
Hình chụp tượng Tô thị, tại Lạng sơn
Tháng 8 năm 2001.
Ghi chú,
Xin đọc Nam quốc sơn hà, cùng tác giả.
Dã Tượng reo lên:
– Hồi năm trước con chỉ huy Ngưu binh đuổi giặc ở trấn Lạng sơn, con đã thấy tượng này.
Chàng nói với Thanh Nga:
– Chuyện xưa còn đó, tượng đá chưa mòn. Bài hát bình dân mà Thanh Nga biến thành hát Xẩm thực là thảm thiết. Tôi có thể sẽ là viên tướng trẻ một đi không về. Tôi quyết không để Thanh Nga hóa thành nàng Tô thị thứ nhì.
Nghe Dã Tượng nói lòng Thanh Nga như giá băng. Nàng chưa biết nói sao thì Nho Lâm kéo mọi người ra khỏi mối vạn cổ sầu Tô thị, y chỉ Vũ Uy vương hỏi Dã Tượng:
– Thế còn hai vị đây là"