Hỏi (Bà Bạch Thị Thanh Nh.): Con gái tôi đi shop, và bị cáo buộc tội lấy đồ trong cửa tiệm. Chi tiết của sự việc được cháu kể lại như sau:
Cháu đi vào siêu thị mua đồ. Khi mua xong, cháu đến quầy tính tiền để trả tiền. Sau khi trả tiền cháu định rời siêu thị thì một nhân viên an ninh mời cháu trở lại siêu thị và báo cho cháu biết rằng họ nghi là có những món đồ cháu đã không chịu trả tiền.
Cháu đã phản đối thái độ đó của nhân viên siêu thị, tuy vậy cháu vẫn theo sự hướng dẫn của nhân viên và đi vào lại trong siêu thị.
Sau khi lục xét các món đồ, họ báo cho cháu biết rằng cháu đã không trả tiền cây son. Thực ra cây son đó của cháu, cháu đã xài qua, nhưng nhân viên siêu thị cho rằng cháu đã lấy cây son đó ở trong siêu thị vì hộp giấy của cây son được vứt bỏ lại trong siêu thị.
Nhân viên đó bèn gọi một nhân viên an ninh khác, sau đó cháu được đưa lên phòng của vị quản lý siêu thị. Tại đây cháu được viên quản lý thẩm vấn và cuối cùng ông ta quyết định gọi cảnh sát để cảnh sát tự quyết định về việc liệu cháu có bị cáo buộc tội trạng shop-lifting hay không" Chừng 20 phút sau thì cảnh sát đến và mời cháu về đồn. Tại đây sau khi thẩm vấn cảnh sát cáo buộc cháu về tội trạng nêu trên. Cháu đã ra tòa một lần và không chịu nhận tội. Hiện cháu đang được tại ngoại chờ ngày xét xử. Xin LS cho biết là các nhân viên của siêu thị có quyền lưu giữ cháu lâu như vậy trong lúc cháu không hề phạm tội hình sự nào hay không"
Trả lời: Điều 352(1) Đạo Luật Hình Sự quy định rằng: “Bất cứ cảnh sát viên hoặc bất cứ cá nhân nào đều có thể bắt giữ mà không cần trát tòa,
(a) bất cứ người nào đang phạm tội, hoặc ngay sau khi phạm tội phạm có thể bị trừng phạt theo bất cứ đạo luật nào, dù đó là trọng tội hay tội tiểu hình,
(b) bất cứ người nào phạm trọng tội mà chưa bị xét xử, và đưa đương sự, cùng bất cứ của cải nào lục xét được trên người đương sự, ra trước công lý để được xét xử theo luật.”
[Any constable or other person may without warrant apprehend,
(a) any person in the act of commi -tting, or immediately after having committed, an offence punishable, whether by indictment, or on summary conviction, under any Act,
(b) any person who has committed a felony for which he has not been tried, and take him, and any property found upon him, before a justice to be dealt with according to law].
Trong vụ Brown v. G J Coles Ltd (1985) 59 ALR 455. Tình tiết trong vụ đó có thể tóm lược như sau: Vào ngày 11 tháng 8 năm 1978, bị cáo bị nhân viên của Coles bắt giữ ngay sau khi mua hàng và chuẩn bị rời siêu thị.
Bị cáo vào siêu thị và chọn một số đồ từ các kệ hàng và bỏ vào xe đẩy. Một trong những món hàng đó là “gói cà phê chưa xay” (a packet of unground coffee).
“Bị cáo đã xay cà phê tại máy xay để sẵn trong cửa hàng” (The accused ground the coffee in a grinding machine provided by the store). Theo lời khai của nhân viên siêu thị thì bị cáo đặt gói cà phê lên phía bên phải trên chiếc xe đẩy. Nhân viên của siêu thị đã quan sát những hành vi của bị cáo. Khi bị cáo đẩy xe đến quầy tính tiền, thì nhân viên của siêu thị không còn thấy gói cà phê nữa. Tuy nhiên nhân viên của siêu thị nghĩ rằng nếu bị cáo sắp xếp lại các món hàng trong xe đẩy thì gòi cà phê có thể không còn nhìn thấy nữa.
Nhân viên siêu thị tiếp tục theo dõi và thấy bị cáo lấy một thùng giấy và bỏ các món đồ vào trong đó, nhưng không thấy bị cáo bỏ gói cà phê vào trong thùng giấy. Sau khi trả tiền, bị cáo rời siêu thị. Nhân viên siêu thị bèn đi theo và thấy bị cáo đứng cạnh chiếc xe đạp của đương sự. Hộp giấy đựng các món đồ được đặt phía sau xe đạp. “Bị cáo đang cầm gói cà phê ngang tầm ngực” (the accused was holding the packet of coffee at about chest height).
Nhân viên của siêu thị bèn yêu cầu bị cáo trở vào bên trong siêu thị để trả lời lý do về gói cà phê chưa được tính tiền. Hóa đơn tính tiền mua hàng đã được xem xét và hóa đơn đã không ghi số tiền $2 đô la giá của gói cà phê.
Nhân viên siêu thị đã yêu cầu bị cáo cùng đi gặp viên quản lý. Họ bèn gọi cảnh sát. Cảnh sát đến và lấy lời khai của nhân viên siêu thị, rồi lấy lời khai của bị cáo. Sau đó bị cáo bị đưa về đồn cảnh sát và bị cáo buộc về “tội ăn cắp” (larceny).
Tòa sơ thẩm đã kết tội bị cáo. Bị cáo bèn kháng án, đồng thời kiện nhân viên siêu thị về tội “câu thúc thân thể một cách sai trái” (wrongfull arrest) và “tội giam giữ người trái phép” (false imprisonment).
Luật sư của bị cáo cho rằng một người bình thường câu thúc thân thể của một người khác, theo sự quy định của điều 352, thì người đó phải đưa người bị bắt ngay lập tức đến cơ quan chính quyền mà không được quyền trễ nãi trong lúc liên lạc với các viên chức cảnh sát hoặc viên chức chính quyền liên hệ.
Trong trường hợp hiện tại, bị cáo khiếu nại rằng không phải đương sự bị cầm giữ lâu mà vì bị cáo không được đưa trực tiếp từ nơi bị bắt đến tòa để được xét xử như Đạo Luật đã quy định.
Tuy nhiênTòa đã cho rằng vấn đề được đặt ra là “liệu bị cáo có được đưa ra trước vị thẩm phán hòa giải trong thời gian hợp lý hay không” (whether the accused person has been brought before a justice of the peace within a reasonable time).
Thời gian hợp lý ở đây có nghĩa là là khoảng thời gian “ngắn nhất có thể thực hiện được một cách hợp lý” (as short as reasonably practicable).
Trong trường hợp người bị nghi ngờ phạm tội “ăn cắp đồ trong cửa tiệm” (shop-lifting), thì nhân viên không thể bắt giữ “nghi can” (suspected person) cho đến lúc đương sự rời khỏi cửa tiệm mà không chịu trả tiền cho món hàng mà đương sự đã lấy. Vì thế, cảnh sát không thể quyết định về việc cáo buộc tội trạng đối với nghi can, ngoại trừ nhân viên của cửa tiệm được phép bắt giữ nghi can và sau đó giao cho cảnh sát.
Luật sư của bị cáo đã tranh cãi rằng Điều 352 của Đạo Luật Hình Sự phải được xem là một thể hợp nhất và không thể tách rời được. Trong điều khoản đó “hai hành động thể lực” (the two physical acts) đã được quy định. Hành động thứ nhất là “sự bắt giữ” (the apprehension), và hành động thứ hai là “việc đưa người bị bắt ra trước công lý để được thụ lý theo luật” (the taking of the arrested person before a justice to be dealt with according to law). Hai hành động này không thể tách rời nhau được mà phải được thực hiện cùng lúc. Điều này có nghĩa rằng hành động thứ hai phải được thực hiện ngay bởi người bắt giữ người khác, bằng người lại toàn bộ tiến trình câu thúc thân thể trở thành bất hợp pháp, và vì thế có thể tranh kiện được.
Tuy nhiên Tòa kháng án đã cho rằng sự tranh cãi đó vô căn cứ vì chưa có án lệ để làm nền tảng cho sự tranh biện đó. Cuối cùng Tòa đã tha bổng bị cáo về tội ăn cắp sau khi xem xét về các bằng chứng hiện trạng, tuy nhiên Tòa đã bác bỏ sự khiến nại liên hệ đến việc “câu thúc thân thể một cách sai trái” (wrongfull arrest) và “tội giam giữ người trái phép” (false imprisonment).
Dựa vào luật pháp cũng như phán quyết vừa trưng dẫn bà có thể thấy được rằng để có thể kết buộc con bà vào tội trạng nêu trên công tố viên phải trưng dẫn bằng chứng là con bà đã phạm tội mà không còn gì để hoài nghi được nữa, bằng ngược lại con của bà sẽ được tha bổng. Những bằng chứng mà công tố viên có thể trưng dẫn đó là những cuốn video thâu hình con của bà đang mở chiếc hộp rồi lấy thỏi son và sau đó không chịu trả tiền. Ngoại trừ những bằng chứng đó được trưng dẫn, bằng ngược lại con của bà sẽ được tha bổng nếu những gì bà kể trong thư là đúng với sự thật.
Riêng việc khiếu kiện về tội giữ người trái phép, dựa vào những tình tiết mà bà đã nêu lên trong thư, chúng tôi nhận thấy bà rất khó để thắng kiện về điểm này.
Nếu bà còn thắc mắc xin điện thoại cho chúng tôi để được giải đáp thêm.