Hôm nay,  

Thời Sự Úc: Phát Triển Dân Số Và Hậu Quả Khí Thải

24/01/201000:00:00(Xem: 3873)

Thời sự Úc: Phát triển dân số và hậu quả khí thải - Hoàng Đ.Thư

Trên chính trường liên bang trong thời gian gần đây, đặc biệt kể từ khi ông Tony Abbott lên nắm quyền lãnh tụ đối lập liên bang, hai vấn đề được giới truyền thông, và qua đó, cử tri, chú ý đến nhiều nhất là chính sách của chính phủ trong việc đối phó với sự thay đổi của khí hậu- đặc biệt là chính sách mua bán khí thải, cùng với chính sách đối phó với người tầm tỵ. Những vấn đề khác, tuy không kém phần quan trọng, lại chẳng được chú ý cho lắm là y tế, cải tổ thuế khóa và ảnh hưởng của luật lao tư. Thế nhưng còn hai vấn đề khác, vốn thường xuyên là mối ưu tư hàng đầu cuả những người hằng quan tâm đến vận mệnh đất nước, và là hai vấn đề quan trọng của nước Úc trong thời gian rất lâu, gần đây lại không được nhắc đến nhiều là sự lão hóa của dân số cùng với chính sách di trú. Sau đây, xin mời qúy độc giả theo dõi bản lược dịch bài nhận định của bỉnh bút Peter Van Onselen, được đăng tải trên nhật báo The Australian hôm  16/1/10 vừa qua, tựa đề “The Right Cause, But Wrong Effect”- Động cơ Chính Đáng, Hậu Quả Sai Lạc”.

*

Sự lão hóa của dân số và di trú là hai vấn đề chính trị quan trọng ở đất nước này từ lâu. Trong những năm tháng sắp tới, tầm vóc quan trọng của chúng lại càng lớn hơn và những ảnh hưởng về cách đối phó với  chúng về mặt chính sách lại càng sâu rộng hơn.
Cách đây không lâu, TT Kevin Rudd tuyên bố ông yểm trợ “một nước Úc to lớn”, có nghĩa ông là người yểm trợ sự tiên đoán của bản tường trình xuyên thế hệ (intergenerational report), đến năm 2050 dân số của Úc có thể lên đến 35 triệu người.
Nếu dân số leo lên đến mức này thì nguyên nhân chính sẽ là mức độ thâu nhận di dân cao song song với việc chính phủ khuyến khích mức sanh sản cao để đối phó với sự lão hóa của dân số.
Thế nhưng, một dân số nhanh chóng gia tăng mang đến nhiều thử thách lớn lao, và không phải tất cả mọi người dân Úc đều thấy thoải mái, vui vẻ với phương hướng mà nó sẽ làm thay đổi cuộc đời của họ.
Gia cư sẽ phải có mật độ cao hơn và các thành phố sẽ phải trở nên rộng lớn hơn nữa. Giá cả nhà cửa sẽ tiếp tục gia tăng và sự canh tranh để có được công ăn việc làm tốt cũng sẽ trở nên gay gắt hơn.
Thâu nhận thêm nhiều di dân có nghĩa là chủ nghĩa đa văn hóa sẽ bành trướng thêm nữa và đấy là điều mà không phải người dân Úc nào cũng yểm trợ.
Thêm vào đó sự phát triển kinh tế nhờ vào khoáng sản vốn đã khiến chúng ta trở nên giầu có qua việc xuất cảng chúng cho những nền kinh tế đang phát triển như Trung Hoa cũng có thể bị sụt giảm vì nhu cầu chuyển hướng ít nhất một phần nào những khoáng sản này để thỏa mãn nhu cầu nội địa và qua đó, sự sung túc của quốc gia cũng có thể sẽ bị cắt giảm.
Tất cả những điều nói trên không nhất thiết phải là lý do  để chống lại “một nước Úc to lớn”. Lợi ích của một dân số lớn mạnh rất là rõ rệt. Bằng chứng cho thấy các quốc gia lớn mạnh hơn thường dễ dàng ganh đua trên một thế giới đã được toàn cầu hóa và sự an ninh của quốc gia chắc chắn được cải thiện. Thế nhưng, ít ra chúng cũng là lý do để chúng ta phải ngưng lại và suy nghĩ về những ảnh hưởng sẽ có từ sự gia tăng của dân số, cũng như từ nguồn gốc của sự gia tăng ấy
Các chính phủ thường không bao giờ đề ý đủ đến cái định luật về những hậu quả ngoài ý muốn (unintended consequences) rằng phong cách mà những quyết định của họ hầu đáp ứng cho điểm A có thể tác động đến những điểm từ B đến Z.
Chính sách White Australia Policy đã tạo nên vết sẹo khó phai mờ cho uy tín của chúng ta với cộng đồng quốc tế. Quyết định về chính sách bắt trẻ em thổ dân ra khỏi gia đình của chúng thuở xưa hiện đang tạo tình trạng mập mờ về những việc gì nên hoặc không nên làm khi đáp ứng lời kêu gọi của người thổ dân để được biệt đãi.
Ở Trung Hoa, chính sách một con vốn được hoạch địch để ngăn ngừa việc dân số bộc phát đã khiến cho xã hội Trung Hoa hiện nay với cả một thế hệ trong cảnh trai thừa gái thiếu, chưa kể đến những khó khăn của một lực lượng lao động có giới hạn phải yểm trợ, nuôi cho cả một dân số bị lão hóa.
Từ thời này sang thời khác, các chính phủ đều cho rằng các quyết định về chính sách của họ sẽ giải quyết được vấn nạn, nhưng thông thường thì sự thật không phải thế. Ngược lại, chính các quyết định này lại tạo ra nhiều vấn nạn khác.
Những nỗ lực gần đây trong việc nâng cao mức sinh sản hầu chống lại sự lão hóa của dân số có thể là một thí dụ về chuyện những ảnh hưởng bất ngờ sẽ tạo nhiều tai hại hơn là tốt lành.
Ai có thể quên được lời yêu cầu của cựu tổng trưởng kinh tế Peter Costello rằng phụ huynh nên có 3 đứa con: một cho cha, một cho mẹ, và một cho quốc gia" Tiền tặng thưởng phụ trội khi sanh con (baby bonus) và tiền phụ cấp giữ trẻ (childcare assistance) đã khuyến khích người dân Úc có thêm nhiều con, và tỷ lệ sanh sản toàn quốc  có gia tăng.


Nhưng với ngân sách quốc gia hiện đang gặp áp lực tài chánh, một phần của phụ cấp đó đã bị cắt giảm, và có lẽ sẽ còn thêm nhiều cắt giảm khác nữa. Với đảng Lao Động nắm quyền thì việc thẩm định lợi tức tối thiểu (means testing) đã là cơ chế được sử dụng trong việc cắt giảm này. Sự tăng vọt trong tỷ lệ sanh sản (fertility surge) gần đây có thể biến thành một cái bong bóng dân số chẳng những khiến cho những người Úc mới sanh khó được yểm trợ tài chánh trong tương lai ngắn khi chúng còn là trẻ con, mà còn có thể biến chúng thành gánh nặng phí tổn khi chúng đến tuổi già tương tự như thế hệ được mệnh danh là baby boomers (những người được sanh trong khoảng thời gian hậu Thế Chiến II đến 1963) đang trở thành gánh nặng hiện nay.
Vì thế, chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi chính phủ quan ngại về sự leo thang nhanh chóng của phí tổn của gia đình và quốc gia trong việc nuôi dưỡng trẻ con.
Vào thời điểm mà chi phí y tế gia tăng và con số người trong thế hệ baby boomers đến tuổi về hưu thì trong tư cách một quốc gia, chúng ta lại bị đè nặng thêm về những chi phí phụ trội cho việc giữ trẻ, cho học đường và phí tổn chăm sóc người cao niên.
Có thể những ảnh hưởng không định trước của nỗ lực nâng cao tỷ lệ sanh sản để chống lại sự lão hóa của dân số sẽ là một gánh nặng phụ trội về khoản chi phí cho giới trẻ trong sự chi tiêu của chính phủ.
Và với mức giới hạn của ngân sách ngày càng eo hẹp thì chuyện sẽ xảy ra là các gia đình vốn đã eo hẹp, chật vật sẽ bị buộc phải cung ứng cho những chi phí bộc phát này vì sự trợ cấp của chính phủ bị rút lại.
Và đấy là thời điểm mà sự tranh cãi về mức thu nhận người di dân sẽ chiếm tầm quan trọng của nó. Việc thu nhận di dân, đặc biệt là những di dân có tay nghề, là một phương thức rất tiết kiệm và hữu hiệu trong việc chống sự lão hóa của dân số mà không tạo nên những gánh nặng cho ngân sách về những phí tổn lâu dài trong tương lai trước khi những công dân mới đủ tuổi làm việc. Thế nhưng, di trú lại mang đến những ảnh hưởng không lường trước của chính nó.
Các người di dân có tay nghề có thể bước thẳng vào những ngành nghề đang thiếu hụt nhân viên và tiền thuế của họ có thể đóng góp ngay tức khắc vào sự thịnh vượng của đất nước, nếu họ không bị cho là cướp mất cơ hội có công ăn việc làm của những công dân khác. Nếu có sự cảm nhận rằng chuyện ấy xảy ra thì những thế lực chống di dân với những lối ngụy biện vay mượn và những thành kiến xưa cũ từ những loại người như Pauline Hanson, sẽ xuất hiện để xách động.
Và điều này sẽ dẫn đến một cuộc tranh cãi đầy tính chia rẽ, tương tự như chuyện mà chúng ta đã từng mục kích trong khoảng giữa thập niên 80 tới khoảng cuối thập niên 90. Tình hình này có thể sẽ xảy ra một lần nữa với phe đối lập liên bang hiện đang tìm cách thủ lợi chính trị về những mối quan ngại khi thủ tướng Kevin Rudd yểm trợ một nước Úc lớn mạnh vốn một phần sẽ được thực hiện qua việc thâu nhận di dân.
Nhân tố cuối cùng cần phải được suy nghĩ đến khi nhắm đến một tỷ lệ sanh sản cao hoặc mức thu nhận di dân cao là áp lực sẽ mang đến cho môi trường sống và khả năng của nước Úc trong việc đáp ứng mục tiêu cắt giảm khí thải. Nếu chúng ta quả thật nghiêm túc về việc cắt giảm khí thải xuống mức tương đương với năm 2000 thì sự gia tăng dân số đáng kể sẽ khiến cho chuyện này càng trở nên khó khăn hơn, bởi vì tỷ lệ cắt giảm tính theo đầu người lại càng phải cao hơn.
Cho dù chúng ta nói về  mức thu nhận di dân hay tỷ lệ sanh sản, tất cả các chính sách khuyến khích gia tăng dân số lại càng nêu rõ hơn nữa những khó khăn của thể chế liên bang.
Chúng ta có các chánh phủ cấp tiểu bang chịu trách nhiệm cung cấp phần lớn những dịch vụ mà các tân công dân cần đến, nhưng đồng thời chúng ta lại có một chính phủ liên bang nắm giữ túi tiền cũng như kiểm soát những chính sách ảnh hưởng đến tầm vóc của dân số. Và điều này có nghĩa là nếu hai cấp chính phủ này không hợp tác với nhau thì việc phân chia trách nhiệm sẽ không thể nào được thực hiện.
Các chính khách liên bang như các ông Kevin Rudd và Tony Abbott thích nghĩ rằng giải pháp cho khó khăn này là việc tập trung quyền lực về Canberra. Thực tế thì phân chia thêm nhiều quyền hạn cho các tiểu bang được thâu đủ số thu nhập mà họ cần để đương đầu với những thử thách ấy mới là phương cách đúng. Dĩ nhiên, chuyện này chỉ nên xảy ra nếu chúng ta có thể cải thiện được phẩm chất và năng lực của các chính trị gia chọn lựa chính trường tiểu bang. Nếu không thì cái định luật về những hậu quả không lường trước lại có thể xảy ra.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Viện Kiểm Soát Nhân Dân Tối Cao tại Việt Nam đã đề nghị ngưng thi hành án lệnh hành quyết với tử từ Hồ Duy Hải để điều tra lại vụ án này, theo bản tin của Đài Á Châu Tự Do cho biết hôm 2 tháng 12.
Tuần báo OC Weekly đã viết twitter cho biết đóng cửa sau khi chủ nhân là công ty Duncan McIntosh Company đóng cửa tuần báo giấy một ngày trước Lễ Tạ Ơn.
Cha mất rồi. Em buồn lắm, vì không về thọ tang Cha được. Em đang xin thẻ xanh. Sắp được phỏng vấn. Vợ chồng em định năm sau, khi em đã thành thường trú nhân, sẽ về thăm Cha Mẹ. Ngày tạm biệt Cha lên đường đi Mỹ du học bốn năm trước, đã thành vĩnh biệt.
Tôi khẳng định những việc tôi làm là đúng đắn và cần thiết để kiến tạo một xã hội tốt đẹp hơn. Những gì tôi làm không liên can đến vợ con và gia đình tôi. Vì thế, tôi yêu cầu công an Hồ Chí Minh chấm dứt ngay việc sách nhiễu, khủng bố gia đình tôi.
Brilliant Nguyễn là một thanh niên theo trường phái cấp tiến và chủ thuyết Vô Thần (*). Chàng ta không tin ma quỷ đã đành mà cũng chẳng tin rằng có thần linh, thượng đế. Để giảm bớt căng thẳng của cuộc sống, theo lời khuyên của các nhà tâm lý và bạn bè, chàng ta đến Thiền Đường Vipassana ở Thành Phố Berkeley, California để thực hành “buông bỏ” trong đó có rất nhiều cô và các bà Mỹ trắng, nhưng không một ý thức về Phật Giáo
Có những câu chuyện ngày xửa ngày xưa mà chẳng xưa chút nào. Có những chuyện hôm nay mà sao nó xa xưa vời vợi. Chuyện ngày xưa... Có một ngôi chùa ở vùng quê thanh bình, trước mặt là đồng lúarì rào, cánh cò chao trắng đồng xanh. Trong chuà có vị hoà thượng già hiền như ông Phật, lông mày dài bạc trắng rớt che cả mắt...
Ông Gavin Newsom, Thống đốc tiểu bang California, đã tuyên bố ân xá cho hai người đàn ông từng dính vào hai vụ hình sự khác nhau khi họ mới 19 tuổi và đang mong muốn không bị trục xuất về Việt Nam.
Hoang Nguyen, 43 tuổi, bị bắt và bị truy tố về tội trộm sau khi bị cho là đổi nhãn giá trên hơn ba mươi chai rượu vang tuần trước, theo hồ sơ tòa.
Bé ngọc ngà của Mẹ cố thở chút không khí ít oi còn trong buồng phổi. Giây phút cuối. Để ngàn sau dân Hong Kong sống xứng đáng Con Người.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.