Hỏi (Ông Trần Trọng Quốc): Con tôi năm nay học lớp 10. Cách đây chừng 5 tuần lễ, cháu đi chơi với bạn, đến khoảng xế chiều thì có xe cảnh sát ngừng ở trước nhà và một cánh sát vào hỏi cháu. Chúng tôi trả lời là cháu đi chơi với bạn từ sáng sớm. Cảnh sát bèn để danh thiếp lại và yêu cầu chúng tôi báo cho cháu biết là khi cháu về nhà nhớ gọi điện thoại cho cảnh sát.
Mãi tới 3 giờ chiều hôm sau cháu mới về đến nhà. Tôi hỏi thì cháu cho biết là hôm qua đi chơi với bạn, vì người bạn đã lấy đồng hồ của một người học cùng trường, sau đó đòi học sinh đó phải đưa $20 mới trả lại đồng hồ. Học sinh đó bèn yêu cầu cháu cùng người bạn đứng chờ để vào máy rút tiền. Tuy nhiên học sinh đó đã đi gọi điện thoại báo cho cảnh sát, vì thế người bạn cùng cháu phải bỏ đi chỗ khác.
Cảnh sát không tìm được cháu và người bạn, nên đã đến nhà. Tuy nhiên, sau đó cảnh sát đã tìm gặp được cháu và người bạn tại McDonald và đã yêu cầu 2 cháu lên xe chở về đồn.
Sau khi chất vấn cháu và người bạn đã bị cáo buộc về tộâi đe dọa tống tiền.
Theo lời kể thì cháu vô can trong vụ này, vì cháu không hề đe dọa mọi chuyện là do người bạn của cháu thực hiện.
Xin LS cho biết liệu cháu có bị kết buộc tội vừa nêu hay không" Năm nay cháu mới 15 tuổi và chưa bao giờ gặp rắc rối về pháp luật và tòa án.
*
Trả lời: Điều 99 Đạo Luật Hình Sự 1900 quy định rằng: “Bất cứ ai, dùng lời lẽ đe dọa, hoặc dùng vũ lực, để đòi tiền bạc từ bất cứ người nào, với ý định tước đoạt số tiền đó, sẽ bị tù khổ sai 10 năm.” (Whosoever, with menaces, or by force, demands any money from any person, with intent to steal the same, shall be liable to penal servitude for ten years).
Trong vụ Director of Public Prosecutions v. Kuo [1999] NSWSC 1201. Trong vụ đó, nạn nhân được 16 tuổi vào lúc sự việc xảy ra. Diễn tiến của nội vụ có thể tóm lược như sau:
Vào lúc 10.30 sáng ngày 2.2.1999, trong lúc chờ xe tại trạm xe buýt, nạn nhân thấy “bị cáo,” là một người quen lúc còn học tiểu học, cùng đi với một thiếu niên khác.
Khi xe buýt đến, nạn nhân bèn lên xe và lui ngồi tận hàng ghế sau của xe. Bị cáo và thiếu niên đã cùng lên chiếc xe buýt đó. Họ đã ngồi ngay hàng ghế phía trước mặt nạn nhân. Bị cáo và nạn nhân đã chào nhau.
Không có hành khách nào ngồi gần chỗ nạn nhân, ngoại trừ bị cáo và thiếu niêu cùng đi. Một vài hành khách khác thì ngồi tận ở những hàng ghế trước.
Thiếu niên cùng đi với bị cáo đã lưu ý cái mobile phone (điện thoại di động) mà nạn nhân đang cầm trong tay, và đã yêu cầu nạn nhân đưa cho xem. Nạn nhân đã đồng ý và trao chiếc điện thoại di động cho thiếu niên đó.
Thiếu niên bèn hỏi giá của chiếc điện thoại rồi nói: “Thôi bây giờ mày không phải lo về cái điện thoại này nữa, nó là của tao rồi.” (Well you don’t have to worry about it now, it’s mine.”
Thiếu niên bèn bỏ chiếc điện thoại vào túi. Nạn nhân yêu cầu bị cáo trả lại điện thoại và cho biết là cần phải có điện thoại để làm việc. Tuy nhiên lời yêu cầu của nạn nhân đã bị từ chối. Nạn nhân nài nỉ và nói rằng là sẽ làm bất cứ điều gì để được trả điện thoại lại vì cần phải có điện thoại để làm việc.
Thiếu niên bèn hỏi nạn nhân là có bao nhiêu tiền trong túi. Nạn nhân cho biết là có $15. Thiếu niên bèn cho nạn nhân biết là muốn lấy điện thoại lại thì phải trả nhiều hơn số tiền đang có trong túi, rồi hỏi nạn nhân là có thêm tiền hay không. Nạn nhân cho biết là có $50 trong ngân hàng. Thiếu niên bèn ra lệnh cho nạn nhân đi theo đương sự đến máy rút tiền tại ngân hàng để rút tiền. Thiếu niên ra lệnh cho nạn nhân rút $50 và nói rằng nếu có nhiều hơn trong trương mục thì nên rút ra và đưa luôn vì đương sự rất muốn luôn số tiền đó. Thiếu niên bèn lấy $50 nhưng vẫn không chịu trả lại điện thoại, đợi cho nạn nhân năn nỉ nhiều lần cuối cùng mới trả lại. Bị cáo ngồi kế bên nhưng nhìn vào hướng khác, tảng lờ làm như không hay biết đến sự việc đang xảy ra.
Sau đó, thiếu niên và bị cáo bị bắt và bị cáo buộc tội đe dọa tống tiền. Tuy nhiên tòa sơ thẩm bác bỏ “bản ghi các sự kiện để truy tố” (information) được đệ trình bởi công tố viện, và tha cho bị cáo vì cho rằng tội đe dọa tống tiền đòi hỏi phải có sự đe dọa gây ra thiệt hại. Tòa cho rằng thiệt hại do sự đe dọa phải là sự thiệt hại về thể chất cho nạn nhân hoặc cho những người thân của nạn nhân. Vì không có sự đe dọa đe dọa trực tiếp hoặc gián tiếp nên tòa bèn tha bổng bị cáo. Công tố viện bèn kháng án.
Vào lúc xét xử, luật sư của Công Tố Viện đã trưng dẫn các quyết định trước đây của tòa tại Anh Quốc cũng như tại Úc.
Trong vụ R v Tomlinson [1895] 1 QB 706. Trong vụ đó, “bị cáo đã viết thư đòi 10 xu và đe dọa người nhận thư rằng nếu không nhận được thì bị cáo sẽ vạch trần hành vi cho rằng là đồi bại về tình dục của người nhận” (accused had written a letter demanding ten shillings and threatening the recipient that if it was not received he would expose the recipient’s alleged sexual misconduct).
Vấn đề được đặt ra là liệu việc gửi thư có phải là bằng chứng của việc đòi tiền với sự hăm dọa hay không" Luật sư của bị cáo tranh cãi rằng “từ ‘đe dọa’ cần phải có sự đe dọa về sự thiệt hại đối với cá nhân hoặc tài sản của người bị đe dọa” (the word ‘menaces’ necesaarily imported a threat of injury to the personor the property of the person threatened).
Tuy nhiên, Tòa đã cho rằng sự đe dọa bao gồm lời đe dọa về sự nguy hiểm do bởi việc tố cáo hành vi cho rằng là đồi bại.
Trong vụ R v. Boyle and Merchant [1914] 3 KB 339. Trong vụ đó, bị cáo đe dọa là cho công bố trên báo chí làm thiệt hại đến giá cổ phiếu của công ty trên thị trường. Tòa đã bác bỏ lời tranh biện cho rằng từ “đe dọa”bị giới hạn đối với sự đe dọa bạo hành thuộc về thể chất hoặc sự đe dọa gây thiệt hại đối với nhân cách.
Tòa cho rằng khi một người với ý định ăn cắp, đe dọa bạo hành đối với một người khác, hoặc thực hiện những hành vi được tính toán để gây phương hại cho tài sản hoặc nhân cách của một người khác, thì sự đe dọa đó là sự đe dọa theo sự quy định của đạo luật.
Trong vụ R v. Clear [1968] 1 QB 670. Trong vụ đó, bị cáo đã bị kết tội vì đã đe dọa là sẽ đưa ra bằng chứng làm phương hại đến vụ kiện của nguyên đơn. Bị cáo bèn kháng án, nhưng đơn kháng án của bị cáo đã bị bác bỏ.
Cuối cùng tòa đã chấp nhận sự kháng án của công tố viện và đã gửi trả lại vụ kiện cho tòa sơ thẩm để được xét xử lại.
Dựa vào luật pháp cũng như các phán quyết vừa trưng dẫn, ông có thể thấy được rằng việc cháu và bạn cháu đã dính dáng đến việc bắt nạt để lấy đồng hồ của một học sinh rồi sau đó buộc phải trả tiền mới hoàn trả lại đồng hồ là một hành vi phạm vào tội trạng quy định theo điều 99 của Đạo Luật Hình sự 1900 như đã nêu trên.
Nếu cháu thực sự không liên hệ đến vụ việc thì chắc chắn tòa sẽ được tòa tha bổng. Tuy nhiên, điều này còn tùy thuộc vào sự nhận tội của bạn cháu cũng như lời khai của bạn cháu và nạn nhân. Nếu ông còn thắc mắc xin điện thoại cho chúng tôi để được giải đáp thêm.