Thưa Đại sứ Williamson, Cám Ơn Ông Lắm
Gần đây Cựu Đại sứ Mỹ Richard S. Williamson có viết một bài về Việt Nam Cộng sản. Bài viết tựa đề "Vietnam: A Paradise Haunted by Human Rights Abuse" [xin tạm dịch "Việt Nam: Một Thiên đàng Bị Lạm Dụng Nhân quyền Am Anh". Ô. Richard S. Williamson là một đại sứ Mỹ bên cạnh Liên Hiệp Quốc thời TT Reagan. Thời TT Bush năm 2004, Ông cũng được TT Bush bổ nhiệm vào Ủy Hội Nhân quyền của Mỹ bên cạnh Ủy Hội Nhân quyền của Liên Hiệp Quốc ở Genève. Thâm niên công vụ của Ong trong thời chót của Chiến tranh Lạnh TT Reagan đối đầu cực điểm với CS quốc tế sụp đổ ít lâu sau đó; vị trí của Ông làm đại diện ngoại giao cao cấp nhứt cho Mỹ bên cạnh cơ quan quốc tế lớn nhứt của thế giới, và thời gian làm việc bên cạnh Ủy hội nhân quyền của Liên hiệp quốc; ngần ấy hiểu biết và kinh nghiệm làm cho bài viết của Cựu Đại sứ Richard S. Williamson được rất nhiều người chú ý.
Về hình thức bài viết rất gọn nhẹ, khoảng 1300 chữ thôi. Bố cục kinh điển. Chữ dùng gọn gàng, chữ nào nghĩa nấy không thể diễn dịch khác được. Ý tứ mạch lạc biến nội dung như một dòng nước chảy thong dong dù đề tài liên quan đến chánh trị vốn rất khô khan.
Về nội dung, hết sức súc tích, hàm chứa hầu hết các nét chánh về những vi phạm nhân quyền của CS Hà nội. Ông đã khéo léo đưa ra một bức tranh với bối cảnh tươi đẹp là đất nước và con người VN để làm nổi bật cái bóng ma đã ám nhân quyền VN. Quốc gia dân tộc VN, dưới cái nhìn của Ong Đại sứ là một quốc gia dân tộc giàu đẹp về thiên nhiên, di sản và văn hóa với một tiềm lực kinh tế năng động và dân chúng cần cù. Nhưng nhà cầm quyền lại chối bỏ mọi tự do và vị phạm nhân quyền một cách có hệ thống. Ông lấy lời của Dân biểu Chris Smith để mô tả bóng ma - CS Hà nội -- lạm dụng nhân quyền: "Việt Nam [CS] có một hồ sơ nhân quyền đáng hổ thẹn (shameful)."
Dẫn chứng sắc nét. CS siết chặt tự do ăn nói, tự do báo chí, tự do hội họp, và giam cầm nghiệt ngã hàng trăm tù nhân chánh tri. Năm 2006 tiếp tục trấn áp, bắt bớ nhiều nhà đấu tranh cho dân chủ, nhiều ngươi bất đồng chánh kiến và nhiều người thiểu số ở Cao Nguyên theo đạo Tin lành. Đàn áp những giáo hội độc lập, kiểm soát Internet, báo chí, siết chặt không cho hội họp, bắt cầm tù nhiều người vì tín ngưỡng. Truyền thông, chánh đảng, tổ chức tôn giáo, nghiệp đoàn độc lập bị cấm đoán
Thí dụ điển hình. Trường hợp Trương Quốc Huy bị CS bắt chỉ vì nghe bàn thảo dân chủ trên Internet. Kỹ sư Bạch Ngọc Dương bị đuổi việc vì ký vào tuyên ngôn Dân Chủ. Vũ Hoàng Hải bị tra tấn vì đã ủng hộ hiến chương Dân Chủ này.
Ông nói ở VNCS tất cả các tôn giáo phải "đăng ký". Văn kiện dẫn chứng, Pháp lịnh về Tôn giáo năm 2004, nhà cầm quyền cấm mọi cuộc tập họp tôn giáo mà nhà cầm quyền cho là có vẻ hại cho an ninh trật tự. Phật Giáo Việt Nam Thống Nhứt bị cô lập trong chùa. Hàng trăm Nhà Thờ Tin Lành xin "đăng ký" bị bác bỏ. Năm 2005, Nghị định 34 cấm dân không tụ tập trước cơ quan của Đảng Nhà Nước CS. Năm 2006, cuối năm khi TT Bush đến Hà nội trẻ em và người vô gia cư bị lùa vào các trung tâm phục hồi nhân phẩm và có người bị đánh đập nữa.
Quyền được luật pháp bảo vệ của người dân bị phủ nhận. Nghị định 31 cho phép nhà cầm quyền quản thúc người dân tại nhà hay tại trại giam, không cần tòa xét xử. Hàng nhiều trăm người bị giam cầm như thế, trong điều kiện nghiệt ngã.
Quyền ăn nói bị siết gắt. Nhà cầm quyền cấm 2,000 hoạt động văn hóa và lưu truyền thông tin. Nghị định 56 qui định hình phạt nặng nề các nhà báo. Nhà báo Nguyễn Vũ Bình bị kêu án 5 năm và Phạm Hồng Sơn, 7 năm
Internet bị siết. Các mạng chánh trị bị khóa, kiểm soát email, các quán có Internet. Hai nhà báo Dương Phú Quang và Nguyễn Huy Cường bị cấm đi Mamila dự cuộc họp về tự do Internet. Phụ nữ bị bán, đàn Ong bị đưa đi ngoại quốc nô lệ tình dục và lao nô. Có nhiều bé gái vị thành niên là nạn nhân. Tệ trạng này xảy ra cho người Việt ở nhiều nước.
Tham nhũng hoành hành, nhà cầm quyền, cán bộ đảng viên cướp đất, cướp của, cướp công của người dân, công nhân lẫn nông dân - từ thành thị đến thôn quê, suốt từ Bắc chí Nam.
Không thể chịu đựng được nữa, phong trào nhân dân ngày càng nổi lên chống nhà cầm quyền CS. Nhiều và nhiều chống đối lắm. Đó là những người yêu nước dũng cảm, tìm cách nói lên tiếng nói lương tri của mình, đấu tranh giành lại quyền tự do cho mình. Những người ấy đương đầu với mọi bắt bớ, giam cầm của nhà cầm quyền CS, không sơ hải nữa.
Ở câu đề luận (thesis sentence) câu quan trọng nhứt của bài viết kinh điển, là câu chót của đoạn nhập đề tóm gọn đại ý của bài viết sẽ trình bày trong thân bài, Ong Cựu Đại sứ Richard S. Williamson gián tiếp gởi một lời nhắn cho CS Hà nội. Rằng cơ hồi dồi dào của thương mại và đầu tư của Mỹ vào VN không làm chệch hướng tự do, dân chủ Mỹ. Vì đó là quyền căn bản bất khả tương nhượng của Con Người, lời hứa của Nhân Loại qua Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền, và là giá trị lập quốc và động lực tiến bộ của đất nước và nhân dân Mỹ.
Qua bài này, người Việt Nam trong đó có người Việt hải ngoại, đặc biệt là một triệu rưỡi người Mỹ gốc Việt ở Mỹ hết sức thấm thía về bài viết của Ô. Cựu Đại sứ Wialliamson. Ông am tường vấn đề VN có khi còn hơn người Mỹ gốc Việt với tin tức nước nhà thời Tin học đi nhanh hơn ánh sáng. Ông nói giùm cho người Việt trong nước bị CS bóp hầu, bóp họng nói không được. Ông nói giùm cho người Mỹ gốc Việt để cho những người Mỹ hiểu biết tại sao công dân Mỹ gốc Việt suốt 31 năm ròng vẫn còn đấu tranh chống Cộng. Ông nói giùm cho hàng triệu cựu quân nhân Mỹ tham gia Chiến tranh VN, mà 57.000 người đã bỏ mình trên chiến trường và con số gấp đôi khác bị thương tật vì lằn đạn của Bộ đội CS Bắc Việt vào xâm chiếm Miền Nam và VNCH yêu cầu Mỹ đứng đầu Thế Giới Tự do vào tiếp viện.
Thưa Đại sứ Williamson, xin cám ơn Ông; cám ơn Ông lắm, lắm.