Với quy mô của những chặng đua mang nhiều tính cách thử thách gian lao và được xem như 1 giải đua xe đạp có truyền thống, và lịch sử lâu đời nổi tiếng khắp thế giới, “Tour de France” rất xứng đáng là 1 sự kiện thể thao trọng đại với khoảng 500 nhân viên trong hệ thống vận hành được điều động bởi ban tổ chức chuyên nghiệp. Kế đến, trong thời gian diễn ra giải đua “Tour de France”, tình trạng an toàn giao thông và kiểm tra hành vi sử dụng các loại thuốc kích thích (Doping) v.v… được 2 hệ thống bảo vệ an ninh cấp quốc gia là Đội Hiến Binh Quốc Gia Pháp Quốc (Gendarmerie Nationale) và Cảnh Sát Quốc Gia Pháp Quốc (Police Nationale) phụ trách với nhân số khoảng 25.000 người.
Ngoài ra, còn có khoảng 15.000 nhân viên an ninh làm việc với tính cách thiện nguyện để bảo đảm trật tự ở mỗi chặng đường đua. Đồng thời, vấn đề cung cấp ẩm thực, thông tin, phụ tùng sửa chữa xe đạp v.v.. cho các tuyển thủ trong suốt giải đua này sẽ do những loại xe “Service Car” của các xí nghiệp tài trợ cá nhân hoặc đội đua, bao gồm cả xe hơi và xe gắn máy luôn chạy kèm theo các đường đua với số lượng xe được ước tính khoảng 1.500 chiếc. Ngoài những loại xe “Service Car” này còn có loại xe “Neutral Car” với tính cách trung lập sẽ cung cấp nước và các dụng cụ cần thiết cho tất cả các tuyển thủ tham gia cuộc đua. Mặt khác, trước khi các tuyển thủ chạy qua mỗi chặng đua khoảng 1, 2 tiếng đồng hồ, sẽ có những loại xe lưu động của những xí nghiệp tài trợ đến nơi để phân phát quà lưu niệm như áo thun, mũ, hoặc bánh kẹo, vật dụng trong sinh hoạt hàng ngày v.v… cho khán giả để quảng cáo những sản phẩm hay dịch vụ của hãng mình tạo thành những quang cảnh nhộn nhịp sinh động chẳng khác gì các buổi lễ hội. Từ năm 2000, số lượng quà tặng cho khán giả do khoảng 200 xe lưu động thực hiện đã vượt quá con số 1 triệu và cho đến nay càng có khuynh hướng tăng dần, đã cho thấy mức độ thu hút khán giả ngày càng đông đảo kèm theo sự phát triển về mặt kinh doanh của các xí nghiệp tài trợ.
Về tổng chi phí cho giải đua “Tour de France” thì phần lớn được trích từ mức thu nhập tiền bán bản quyền cho các đài truyền hình và các nguồn tài trợ. Ngoài ra, tuy còn có nguồn thu nhập từ chính quyền địa phương các nơi có đường đua nhưng số chi thu của giải đua này vẫn không được công khai một cách chính xác.
Xét về thành tích của những quốc gia có các tuyển thủ đoạt cúp vô địch thì tính đến giải 2007 Pháp Quốc dẫn đầu với 36 lần vô địch, kế đến là Bỉ Quốc 18 lần, Tây Ban Nha cùng Hoa Kỳ được 10 lần, Ý Đại Lợi 9 lần, Luxembourg 4 lần, Thụy Sĩ cùng Hòa Lan được 2 lần, Ái Nhĩ Lan cùng Đan Mạch và Đức Quốc đều được 1 lần. Riêng về các tay đua đạt được 5 lần vô địch “Tour de France” thường được gọi tắt bằng danh hiệu “Five Winds Club” và trong lịch sử của giải đua nổi tiếng này từ trước nay đã có 5 tuyển thủ được ghi danh vào thành tích đặc biệt này gồm:
1. Jacques Anquetil (Pháp Quốc): Sinh ngày 8/1/1934, mất ngày 18/11/1987, hưởng dương 53 tuổi. Là tay đua lần đầu tiên xuất hiện tại “Tour de France” vào năm 1957 nhưng đã lướt tốc áp đảo các đối thủ và đoạt cúp vô địch. Sau đó vì bệnh viêm phổi nên tạm nghỉ và trở lại giải đua này từ năm 1961. Vô địch các giải 1957, 1961, 1962, 1963, 1964.
2. Eddy Merckx (Bỉ Quốc): Sinh ngày 17/6/1945, ngoài 5 lần vô địch “Tour de France” còn đăng quang 5 lần tại giải “Giro d’ Italia” và 3 lần vô địch thế giới. Có biệt danh “Thực Nhân Quỷ” do những biểu hiện cuồng nhiệt, ham muốn đạt chiến thắng lấn lướt tốc độ trước các đối thủ. Đạt thành tích 525 lần thắng giải qua tất cả các loại giải đua và rất xứng đáng với danh hiệu “Tay Đua Vĩ Đại”. Ra quân lần đầu tiên vào năm 1969 và ngoài thành tích đoạt cúp vô địch “Tour de France” cùng năm còn chiếm luôn “Giải thưởng đua nước rút” và “Giải thưởng leo dốc” và trở thành tuyển thủ duy nhất đoạt giải cùng lúc 3 bộ môn. Vô địch các giải 1969, 1970, 1971, 1972, 1974.
3. Bernard Hinault (Pháp Quốc): Sinh ngày 14/11/1954, là tuyển thủ nối tiếp theo Jacques Anquetil và Eddy Merckx về thành tích đoạt cúp vô địch giải “Tour de France” trong lần tham dự đầu tiên. Trở thành tuyển thủ chuyên nghiệp năm 20 tuổi và sau đó đã đoạt nhiều danh hiệu vô địch như: 5 lần giải “Tour de France”, 3 lần giải “Giro d‘Italia” 2 lần giải “Vuelta à Espagna”, 1 lần giải Thế Giới và các giải đua xe đạp ở châu Âu. Vô địch các giải 1978, 1979, 1981, 1982, 1985.
4. Miguel Indurain (Tây Ban Nha): Sinh ngày 17/6/1964, là tuyển thủ đầu tiên thực hiện thành tích 5 lần liên tục đăng quang tại “Tour de France”. Tuy có vóc đáng to lớn và nặng 80kg nhưng rất sở trường ở những chặng đua vượt núi đồi và chạy nước rút. Đặc biệt, trong 2 năm 1992 và 1993 tạo được kỷ lục đồng thời đoạt cúp vô địch “Tour de France” lẫn “Giro d’ Italia” (được gọi là “Double Tour”). Ngoài tài năng về kỷ thuật lướt tốc xe đạp còn là 1 người tính tình đôn hậu hiền hòa nên được hầu hết giới chuyên nghiệp đua xe kính trọng qua tên gọi “Roi Soleil” (Vua Mặt Trời). Ngoài ra, tại Nhật Bản còn được gọi là “Terminator” vì tính cách luôn bám sát đối phương mỗi khi bị vượt qua mặt. Vô địch các giải 1991, 1992, 1993, 1994, 1995.
5. Lance Amstrong (Hoa kỳ): Sinh ngày 18/9/1971, bị chứng bệnh sưng tinh sào từ năm 1996, sau đó bình phục vào năm 1998. Từ năm 1999 đã lập kỷ lục lần đầu tiên trong lịch sử chế ngự “Tour de France” liên tục 7 lần. Là 1 tuyển thủ có kỹ thuật đặc biệt khi leo dốc bằng phương pháp sử dụng các ổ răng nhỏ để tăng vòng quay bánh xe và cũng sở trường về hình thức chạy nước rút. Tuy không phải là 1 tuyển thủ đã thành danh trước khi tham dự “Tour de France” nhưng lại tỏ ra rất xuất sắc với thành tích độc đáo của giải đua quốc tế này. Vì vậy đã được tuần báo thể thao nổi tiếng “Sports illustrated” của Hoa Kỳ tuyển chọn là “Sportsman of The Year” vào năm 2002, và được hãng thông tấn AP phong tặng danh hiệu ‘Nam Tuyển Thủ Thể Thao Ưu Tú” của năm 2002, 2003. Tiếp theo, vào 2003, 2004 được đài truyền hình ESPN trao tặng giải thưởng ESPY (Excellence in Sports Perfomance Yearly Awards), đồng thời vào cùng năm 2003 được hãng thông tấn BBC của Anh Quốc tặng giải thưởng “Tuyển Thủ Thể Thao Người Ngoại Quốc Xuất Sắc Trong Năm”. Vô địch các giải 1999, 2000, 2001, 2002, 2003, 2004, 2005.
*
Cũng như các giải đấu thể thao quốc tế khác, “Tour de France” vẫn không thể tránh khỏi những vấn đề gây ảnh hưởng xấu làm mất đi niềm tin của giới ái mộ và trong đó có sự kiện các tuyển thủ sử dụng thuốc kích thích.
Trong lịch sử của “Tour de France”, ngay từ thời kỳ thập niên 1940 đã xảy ra vấn đề này, và lúc đó các tuyển thủ có khuynh hướng sử dụng các loại thuốc giảm đau. Trên thực tế, ngay cả một số danh thủ như Fausto Coppi của Ý hoặc Jacques Anquetil sau khi giải nghệ cũng có những phát biểu mang hàm ý nhìn nhận bản thân mình đã từng sử dụng thuốc kích thích. Hơn nữa, vào giải 1955 trong cuộc kiểm tra 1 số tuyển thủ, đã có 20% đối tượng này bị phản ứng dương tính của thuốc kích thích và có nồng độ cho thấy đang bị nghiện. Kế đến, vào năm 1967 tại chặng đua thứ 13 đã xảy ra vụ tuyển thủ người Anh là Tom Simpson bị ngã quỵ trên đường leo dốc tại ngọn núi Mont Ventoux ở miền Nam nước Pháp có độ cao 1909m và tử vong tại chỗ. Lúc đó, khi giảo nghiệm tử thi của Simpson đã tìm thấy được phản ứng của các chất Amphétamine (tức 1 loại thuốc kích thích), Alcohol và thuốc làm tăng lượng nước tiểu. Từ đó, có nhiều giả thuyết cho rằng sau khi Simpson sử dụng các loại thuốc nói trên rồi bị phản ứng phụ do thời tiết nóng bức và trên thực tế anh được chẩn đoán là bị chết vì chứng say nắng.
Vào năm 1991 cũng xảy ra sự kiện gây nhiều nghi ngờ khi đội đua PDM vượt qua chặng đua thứ 10 thì đột nhiên tất cả tuyển thủ đều cảm thấy cơ thể bất thường nên toàn đội xin bỏ cuộc. Tuy đội đua này đã nhiều lần giải thích là có thể do các tuyển thủ bị trúng thực hoặc bị say nắng v.v… nhưng cho đến nay vẫn bị tình nghi là do các phản ứng phụ của thuốc kích thích.
Tuy nhiên, sự kiện trọng đại và gây nhiều âm hưởng còn vang vọng đến nay vẫn là vụ “khủng hoảng” của đội đua Festina với 8 tuyển thủ bị bắt sau khi phát hiện được số lượng lớn thuốc kích thích để trên xe hơi đi kèm theo đội đua. Vụ scandal này xảy ra tại giải 1998 ngay chặng đua thứ 6 và sau đó đội Festina đã bị loại khỏi danh sách cuộc đua. Tiếp theo ở chặng đua thứ 18, sự phản đối mạnh mẽ các biện pháp can thiệp và điều tra của Đội Hiến Binh Quốc Gia Pháp đưa đến kết quả tất cả đội đua Tây Ban Nha và 1 đội Ý Đại Lợi đồng loạt tẩy chay giải đua này.
Gần đây nhất là là ngay trước giải 2006, với mục đích ngăn chận tệ nạn sử dụng thuốc kích thích, cảnh sát Tây Ban Nha đã tổ chức kế hoạch “Operacion Puerto” (Kế Hoạch Bến Cảng) và bắt giữ bác sĩ Eufemio Fuentes cùng 1 số người khác vì bị tình nghi có liên quan đến “Doping”. Theo các tin tình báo của cảnh sát, bác sĩ Fuentes đã lấy máu của 1 số tuyển thủ trước đó rồi ngay trước ngày của giải đua lại truyền số máu này vào cơ thể của những tuyển thủ, và trong số máu này chứa hàm lượng thuốc kích thích. Sau đó, cảnh sát lại phát hiện được khoảng 200 mẫu máu đang thử nghiệm khác tại căn phòng trọ của bác sĩ Fuentes và công bố danh sách 50 tuyển thủ có liên quan đến sự kiện này. Qua đó, 1 số tay đua nổi danh và được dự đoán là ứng cử viên vô địch của giải 2006 như Jan Ullrich (Đức Quốc), Ivan Basso (Ý Đại Lợi), Alexander Vinokourov (Kazakhstan) v.v… đã bị cấm thi đấu và tuyển thủ đoạt cúp vô địch giải 2006 là Floyd Randis của Hoa Kỳ cũng bị tước đoạt danh hiệu này vào năm kế tiếp do bị phát hiện sử dụng thuốc kích thích.
Chưa hết, tại giải 2007 Alexander Vinokourov đang chiếm ưu thế dẫn đầu với thành tích cao nhất thì sau chặng đua thứ 15 đã bị kiểm tra và có phản ứng dương tính nên bị loại sổ. Kế tiếp là Cristian Moreni của Ý Đại Lợi cũng bị bắt sau chặng đua thứ 16 vì “Doping” và tưởng đâu tay đua Đan Mạch Michael Rasmussen sẽ “trong sạch” với chức vô địch hầu như đã xác thực trong giai đoạn này, nhưng do lời khai gian về nơi hiện diện khi kiểm tra phản ứng thuốc kích thích nên bị xí nghiệp tài trợ là đội đua Rabobank của mình hủy bỏ hợp đồng thuê mướn, tức một hình thức hủy bỏ cuộc đua.