Nhà Thơ Hoàng Cầm Từ Trần Tại Hà Nội, Thọ 88 Tuổi
Hoàng Cầm (ảnh Wikipedia)
Theo báo SGGP, sáng ngày 6/5/2010 vừa qua, nhà thơ, Hoàng Cầm, tác giả của những bài thơ bất hủ Lá diêu bông, Bên kia sông Đuống, do tuổi cao, sức yếu, đã từ trần tại Hà Nội hưởng thọ 88 tuổi. Có báo tính theo tuổi ta, ghi là thọ 89 tuổi.
Bản tin báo SGGP ghi rằng nhà thơ Hoàng Cầm tên thật là Bùi Tằng Việt, sinh ngày 22- 2-1922, tại xã Phúc Tằng, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang; quê gốc xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Tên ông được ghép từ 2 địa danh quê hương: Phúc Tằng và Việt Yên. Thuở nhỏ, ông học tiểu học, trung học ở Bắc Giang và Bắc Ninh. Đến năm 1938, ông ra Hà Nội học trường Thăng Long. Năm 1940, ông đỗ tú tài toàn phần và bước vào nghề văn, dịch sách cho Tân dân xã của Vũ Đình Long. Từ đó, ông lấy bút danh là tên một vị thuốc đắng trong thuốc bắc: Hoàng Cầm. Ngoài ra, ông còn có các bút danh: Bằng Việt, Lê Thái, Lê Kỳ Anh, Bằng Phi
Cũng theo báo SGGP, năm 1944, ông đưa gia đình về lại quê gốc ở Thuận Thành. Cũng tại nơi này, ông bắt đầu tham gia hoạt động "Thanh niên Cứu quốc" của Việt Minh. Tháng 8/1945, ông về Hà Nội, thành lập đoàn kịch Đông Phương. Khi Chiến tranh Đông Dương bùng nổ, ông theo đoàn kịch rút ra khỏi Hà Nội, biểu diễn lưu động ở vùng Bắc Ninh, Bắc Giang, Sơn Tây, Thái Bình một thời gian rồi giải tán.
Từ năm 1947 đến năm 1970, hoạt động của nhà thơ Hoàng Cầm được báo SGGP ghi nhận như sau:"Năm 1947, ông tham gia Vệ quốc quân ở chiến khu 12.Cuối năm đó, ông thành lập đội Tuyên truyền văn nghệ, đội văn công quân đội đầu tiên. Năm 1952, ông được cử làm Trưởng đoàn văn công Tổng cục Chính trị. Đầu năm 1955, Hoàng Cầm được giao nhiệm vụ trưởng đoàn kịch nói, đoàn văn công Hà Nội. Cuối năm 1955, ông về công tác ở Hội Văn nghệ Việt Nam, làm công tác xuất bản. Ông tham gia thành lập Hội Nhà văn Việt Nam, và được bầu vào Ban chấp hành. Ông về hưu năm 1970 nhưng vẫn tiếp tục sự nghiệp sáng tác."
Về giai đọan sau năm 1955, trong bản tin về nhà thơ Hoàng Cầm từ trần, báo Người Lao Động đã nhắc đến vụ Nhân Văn Giai Phẩm và cho biết thêm chi tiết như sau: "Năm 1957, ông là một trong số những hội viên tham gia sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam. Sau đó, ông tham gia nhóm Nhân văn Giai phẩm và thôi công tác tại Hội Nhà văn."
Về tác phẩm, báo SGGP cho biết: "Ông đã để lại kho tàng văn học nhiều tác phẩm nổi tiếng như Hận Nam Quan (kịch thơ, 1944, 1942); Kiều Loan (kịch thơ, 1945); Bên kia sông Đuống (tập thơ chọn lọc, 1993); Lá diêu bông (tập thơ chọn lọc, 1993)... Năm 2007, ông được trao "Giải thưởng Nhà nước" về Văn học nghệ thuật .