Chiến Tranh Iraq: Kinh Nghiệm Nào Đây"
Tuy không ai tin lịch sử lập lại. Nhung lịch sử vẫn là một kho tàng để rút kinh nghiệm. Dù Chiến tranh VN mới nhứt, CS Hà nội rêu rao Mỹ sẽ sa lầy ở Afghanistan và Iraq như ở Việt Nam. Nhưng nhiều dấu chỉ cho thấy chánh quyền Bush dựa vào kinh nghiệm phục hồi và phát triễn Au Châu và Nhựt sau Đệ Nhị Thế Chiến trong mô hình chuyển hóa khi phát động Chiến tranh chống khủng bố ở Afghanistan và Iraq.
Trước khi đoàn quân binh Mỹ giải thoát được thành Baghdad năm 2003, Tổng Trưởng Quốc Phòng Mỹ, Ô. Donald Rumsfeld có nói quân đội Mỹ sẽ được chào đón như đoàn quân binh Mỹ giải thoát được thành Paris năm 1945. Khi tình hình an ninh thành Baghdad không như ý muốn, những nhân vật chủ trương tấn công Iraq nói vả lả, cần thời gian để bình định và phát triển Iraq như đã làm ở Au châu sau Đệ nhị Thế Chiến. Kế hoạch Marshall của Mỹ là tấm gương. Tòa Bạch Oc qua nhiều cách nói và câu nói thuyết phục dân chúng Mỹ kiên nhẫn hơn, đại ý rằng dân chủ không thể xây dựng một ngày một bữa được.
Nhưng rồi tình hình ngày càng tệ hơn nữa làm cho người ta nhìn lại kinh nghiệm của cuộc Chiến tranh Algerie của Pháp và Chiến tranh VN của Mỹ. Chính TT Bush cũng có lần so sánh chiến tranh Iraq với Chiến tranh VN ở một góc độ nào đó. Kinh nghiệm đó là một đạo binh ngoại nhập dù hùng mạnh cũng không thắng được khi người dân nước đó bất mãn, không coi là lực lượng đến giải thoát cho mình. Người Mỹ giàu mạnh nhưng không thể làm thay nghĩ thế cho người dân không một tấc sắt trong tay được. Nên TT Bush mới nói nơi nào người dân đứng lên vì tự do, Mỹ sẽ đứng bên cạnh, tức là chủ động là người dân địa phương. Vì thực tế chứng minh Mỹ giàu mạnh cũng không cứu được nhà cầm quyền gia nô, hay tay sai cho Mỹ. Sách lược thích đi với "nhà cầm quyền mạnh" mà bạc ác với dân thời Chiến tranh Lạnh không kết quả. Chánh quyền phải thực sự của dân, do dân, vì dân thì mới tạo được nội lực dân tộc để bình định, phát triễn đất nước mà Mỹ muốn giúp. Kế hoạch Marshall ở Âu châu sau Đệ nhị Thế chiến thành công vì chánh quyền các nước Au châu là chánh quyền của dân, do dân, vì dân.
TT Bush không phải là vị tổng thống Mỹ duy nhứt gặp khó khăn trong chánh trị nội bộ khi nước Mỹ có chiến tranh trong hay ngoài nước. Kinh nghiệm của tổng thống thứ 33, TT Harry Truman (1945-1953) là kinh nghiệm giống và gần với TT Bush, tổng thống thứ 43 của Mỹ. Dù kế hoạch Marshall diễn biến tốt, ngăn chận hữu hiệu CS ở Au Châu, điều đó không có nghĩa là ngăn cản được nhiều chống đối và trở ngại mà TT Truman phải đối phó khi ngăn chận CS ở Á châu. TT Truman thường xuyên gặp khó khăn với Quốc Hội và những người trong Đảng của Ong về Chiến tranh Triều Tiên với 54.000 quân nhân Mỹ chết và với mức ủng hộ của dân chúng sút giảm chỉ còn có 22% khi chấm dứt nhiệm kỳ. Nhưng lịch sử đã trả lại cho TT Truman công bằng và TT Truman bây giờ được nhiều người Mỹ ngưỡng mộ.
TT Bush còn hai năm nửa là hết nhiệm kỳ hai, không được ra ứng cử nữa. Mức độ được lòng dân của Ong tuy chỉ còn 32%, nhưng vẫn cao hơn của TT Truman. Công tâm mà xét, trách cái gì thì trách, nhưng không thể không phủ nhận được rằng TT Bush là một người dũng cảm, trung thành với niềm tin của mình về chiến tranh chống khủng bố và chiến tranh Iraq và Afghanistan. Dũng cảm như những vị tiền nhiệm lãnh đạo là cô đơn khi quyết định thả bom nguyên tử xuống Nhựt bổn để chấm dứt Chiến tranh thứ hai ở mặt trận Á châu Thái bình dương và quyết định mở cầu không vận rất tốn kém để cứu thành phố Berlin và ngăn chận làn sóng Đỏ lan tràn Au châu. Trường hợp TT Bush trước búa rìu dư luận của đối lập đang kiểm soát Quốc Hội, nhiều khi TT Bush phải dùng tới quyền tối thượng của tổng thống, là tư lịnh tối cao của Quân lực Mỹ, nói "tôi là người quyết định".
Nhưng so với TT Truman, TT Bush thất thế đối ngoại hơn. Quyết định kiên cường chống khủng bố Hồi giáo Cực đoan và Chiến tranh Iraq không được quốc tế ủng hộ như TT Truman trong Đệ nhị Thế Chiến và Chiến tranh Lạnh. Lúc bấy giờ TT Truman hình thành được một ý thức hệ chống CS cho thế giới tự do và nhiều cơ chế ngăn chận sự bành trướng của Liên xô như Liên hiệp quốc, Liên phòng Bắc Đại Tây dương, Liên phòng Đông Nam Á, Cơ quan tình báo Trung ương CIA, kế hoạch Marshall, để Mỹ có thể đóng vai trò lãnh đạo trong việc ngăn chận và đối đầu với CS. Có người còn khen những thành tựu đó là học thuyết Truman.
TT Bush cũng muốn đi vào lịch sử như một tổng thống Mỹ như một người chống khủng bố Hồi Giáo cực đoan, chiến đấu chống cái Ac đang tấn công an ninh, hòa bình thế giới và văn minh nhân loại. Nhưng TT Bush không hay chưa xây đựng được thế quốc tế vững vàng như TT Truman.
Nhưng làm cái gì cũng phải đúng thời điểm và cần thời gian. Ngoại Trưởng Rice giải thích thế ngoại giao yếu này của Mỹ nhơn những ngày gần đây trong công tác ngoại giao con thoi của Bà ở Trung Đông. Bà nói nếu năm 1990 mà nói đến việc thương lượng, bàn bạc việc thống nhứt nước Đức thì không có kết quả, vì những điều kiện chưa hội đủ. Qua giải thích đó người ta thấy tại sao từ lâu chánh quyền Bush gần như bất động trong các thương lượng giữa Do Thái và Palestine, mà bây giờ NT Rice lại gần dành hầu hết thì giờ tới lui các nước Trung Đông như con thoi vậy. Đã đến lúc Mỹ tăng cường nỗ lực để ngăn chận Iran, cần một thỏa hiệp giữa hai giái phái Sunni và Shite. Cần thúc đẩy các nước Do thái, Jordanie, Ai cập, Arabie Saoudite có trách nhiệm hơn trong ngăn chận các tổ chức qua khích, cực đoan Iran, Syrie, Hezbollah, Hamas muốn lũng đoạn tình hình Trung Đông. Có như thế vấn đề Do Thái Palestine, Iraq mới có giải pháp. Cách ngoại giao của bà Rice không dùng thế lực Mỹ ép các nước Trung đông phải làm cái này hay cái kia, mà cố gắng tạo điều kiện cho ba bên bốn phía ngồi lại với nhau, tạo chất men cho tiến trình thương thảo hơn là tuyên bố.
Bao lâu nhân dân và chánh quyền các nước Trung Đông thấy khủng bố là tai họa cho thế giới trong đó có các nước Trung Đông và hành động, thì lò lửa Trung Đông hết chất bổi và tắt. Lúc đó người dân Mỹ có đủ độ lùi thời gian để có thể nhận xét chính xác về TT Bush và lịch sử có thể trả lại công bằng cho TT Bush như đã làm đối với với TT Truman.