Có vô số các trẻ em ngồi cong lưng làm việc trên các máy may dưới sức nóng mặt trời của vùng Châu á dọi xuống mái nhà của các xưởng may, nơi còn được gọi là xưởng mồ hôi. Công việc lao động nặng nhọc 12 tiếng một ngày hợp cùng với sức nóng nghẹt thở và những áo thun của chúng ướt đẫm mồ hôi. Các trẻ em được xem như là những nhân viên đem tiền lương về nhà chỉ có 1 mỹ hay 2 mỹ kim một ngày.
Trong suốt thập niên 1990 những cảnh tượng giống vậy đã làm cho những công ty như Nike gặp phiền phức với khách hàng ở Hoa Kỳ. Nhưng hiện nay, một quyển sách mới đã khuyên người Hoa Kỳ nên có một cái nhìn khác về những xưởng mồ hôi đó như thế nào.
Nicholas Krisof và Sheryl Wudun đi đến vùng Châu Á 14 năm trước để làm việc với vai trò phóng viên. Trong tạp chí New York Time Magazine xuất bản lần thứ 24 Kristof và Wudunn ghi nhận rằng họ chấp nhận quan điểm của hầu hết nguời Á Châu “rằng chiến dịch chống lại các xưởng mồ hôi có nguy cơ làm hại những nguời mà họ muốn giúp.”
Năm 1993, Thượng Nghị Sĩ Hoa Kỳ Tom Harkin ban hành lại bộ luật cấm nhập cảng hàng hóa được làm bằng sức lao động của trẻ em. Các xưởng sản xuất ở Bangladesh, sợ mất đi thị trường Hoa Kỳ, đã đáp ứng lại dự luật bằng cách đuổi 50,000 trẻ em. The United Nations Children Fund (UNICEF) và các tổ chức khác đến thăm Bangladesh nhìn thấy những hậu quả về sự đuổi việc ở khối lượng lớn. UNICEF tìm thấy các trẻ em bị thất nghiệp nhận làm những công việc mới như nghiền đá, bán dâm - và các nghề đó xem ra nguy hiểm hơn nhiều so với những việc làm ở xưởng mồ hôi trong kỹ nghệ may mặc.
Vấn đề không phải là các xưởng mồ hôi mà là do nghèo đói. Các xưởng mồ hôi xuất hiện từ sự nghèo đói. Trong 14 năm kể từ lần đầu tiên Krisoff và Wudunn đến miền Đông Nam Á, họ báo cáo có những thay đổi đáng kể: “Tiền lương hiện nay đã tăng lên từ 50 mỹ kim đến 250 mỹ kim một tháng hay hơn. Các điều kiện xưởng may đã cải thiện.”
Krisoff và Wudunn cũng cho là các xưởng mồ hôi trong việc tạo ra sự thịnh vượng mới thì đang làm đảo lộn nhiều sự việc xung quanh cho các xưởng mồ hôi ở Đông Nam Á, Kristoff và Wudunn viết: “Nếu người Mỹ chống lại những câu chuyện đáng khiếp sợ này trong thập niên 1980 bằng việc cấm nhập cảng những sản phẩm của những xưởng mồ hôi đó, như vậy Trung quốc và Nam Hàn sẽ không có nhiều tiến bộ như ngày nay.”