Hiên nay Ấn Độ đang ở giữa những cái gì mà phần đông dân Trung quốc đều muốn đưa cao tay mặt lên để ca ngợi.
Song Trung quốc là một nước có sức mạnh làm cho tất cả mọi người phải chú ý tới.
Khi lần đầu tiên Tổng thống Richard Nixon sang Trung quốc, hầu hết người ta cho là vị tổng thống này coi thường Ấn Độ để ve vãn Trung quốc, một nứớc có vũ khi nguyên tử, quốc già này có thể giúp để làm cân bằng với Sô- viết.
Vào năm 1998, Ấn Độ cũng có vũ khi nguyên tử và có thể làm cân bằng với Trung quốc. Nhưng các nhà đầu tư và giới báo chí vẫn chạy theo con đường cũ.
Năm ngoái, vốn nước ngoài đổ vào Trung quốc gấp hai lần rưỡi so với số tiền mà các nước đã bỏ vào Ấn Độ.
Báo giới chỉ đăng thuẩn tin bầu cử tại Ấn Độ, trong khi đó mỗi ngày đều đăng mọi chuyện xẩy ra tại Bắc Kinh.
Cảm kích theo thiên kiến đã có từ thời Mao Trạch Đông cho tới ngày nay. Trong khoảng thập niên 1960 và 1970, Trung quốc đã gáy lên rồi, còùn các nhà hoạch định kinh tế của Ấn Độ lại bị chê dài dài.
Ấn Độ bị chế riễu là kinh tế tăng trưởng theo bản chất Hindu (dân chính gốc Ấn). Dân Trung quốc thì no đủ, có nhà, có cửa, sạch sẽ và ngăn nắp, còn dân Ấn Độ thì rách rưới, nghèo đói, chìm đắm trong thất vọng – một thứ văn minh què quặt, theo như nhà văn V.S. Naipaul của Anh quốc. Người từng lãnh giải Nobel, đã viết.
Neville Maxwell tại đại học Oxford là một người nổi tiếng nhất trong giới trí thức của Tây phương, vào thập niên 1960 và 1970 ông này đã cho rằng Trung quốc đã tìm ra giải đáp về chậm tiến.
Năm 1974 ông Maxwel đã viết, “Mao và đảng của ông ta đã thành công còn Stalin lại bị thất bại thê thảm, hết thuốc chữa; bởi vì họ Mao hiểu rõ nông dân và đặt hết niềm tin vào họ.”
Chuyện này thực chẳng ra làm sao. Chúng ta có thể thấy nguyên nhân và hậu quả của nạn đói năm 1981 mà chủ biên JRK Robson đã đưa ra giả thuyết, nếu nói theo nhà bình luận George Watson thì “Giới trí thức đã bi bịp” vì theo cái luận thuyết cộng sản.
Watson đã cho thấy cái khờ dại của nhà kinh tế học và xã hội học Beatrice Sydney Webb lãnh đạo lao động tại Anh, nhà thơ văn Stephen Spender của Anh và tiểu thuyết gia Andre Gide của Pháp để đưa ra bản tường trình hào nhoáng về cái nền kinh tế của Sô-Viết năm 1930, những người nhìn Trung quốc trong thập niên 1960 và 1970 cũng thấy cái hào nhoáng của ngày nào đó. Trung quốc đã từng đi xin lúa gạo khắp hoàn cầu, trong khi Ấn Độ đã phải tranh đấu để sống trong cái nạn hạn hán làm cho mất mùa năm 1979, không nhập cảng lấy một bao gạo.
Ngay nay họ Mao đã chết từ lâu, Đặng Tiểu Bình cải tổ theo tư bản từng bước, chuyện này được nói tới, nói lui theo một cung cách phức tạp nhiều. Đối với phần đông, nền kinh tế của Trung quốc có tiến bộ, chẳng qua chỉ là bề ngoài mà thôi. Aùp lực lạm phát, cho vay nợ khó đòi, lợi tức gia tăng bất bình đẳng cùng với tội phạm gia tăng làm cho nền kinh tế của Trung quốc có vẻ bấp bênh.
Trong khi đó Ấn Độ từ từ cho tăng tốc và nới lỏng hệ thống theo chủ nghĩa xã hội Fabian (loại chủ nghĩa Marxist xét lại). Sau cuộc khủng hoảng quan trọng năm1901, bộ trưởng tài chánh Manmohan Singh đã đưa ra việc cải tổ lấy thị trường làm chính và mở rộng tài khóa, kinh tế Ấn Độ sẽ không bao giờ đi ngược lại nữa. Kinh tế Ấn tăng trưởng trung bình trên 5 phần trăm và nhờ mùa mưa đã tăng được 8 phần trăm. Ông Singh tin rằng chính phủ Ấn hiện nay cho cải tổ nhiều hơn nên và được nhiều người tán thành, kinh tế tăng truởng trung bình hàng năm 6,5 phần trăm có thể duy trì dễ dàng, theo riêng ông kinh tế Trung quốc hiện thời tăng trưởng quá siêu.
Theo thực tế Ấn Độ là nơi phát triển tốt hơn hết cho tương lai. Thị trường vốn hoạt động có hiểu quả hơn Trung quốc. Thị trường này cũng trong sáng hơn nhiều. Các ông ty có thể hái thêm tiền nếu như cần.
Tuy hệ thống luật pháp của Ấn Độ có quá chậm lại tiền tiến nhất, có thể giải quyết được những vụ cực kỳ rắc rối và phức tạp.
Hệ thống ngân hàng của Ấn Độ tương đối có một số ít tài sản không sinh lời. Chính sách dân chủ và giới truyền thông của Ấn Độ cần phải sống để cung cấp cái van an toàn cho những thay đổi thiếu minh bạch mà việc tăng trưởng theo kinh tế hiện đại đòi phải lôi ra.
Ấn Độ có những đại loạn về tôn giáo, các phong trào ly khai, thành phồ bẩn thỉu và thôn quê nghèo túng. Nhưng các cử tri Ấn Độ hiểu rằng họ có thể bỏ đi những chuyện nhỏ nhặt để bình thường lại.
Hơn nữa việc đầu tư ồ ạt của nước ngoài tại Trung quốc là con dao hai lưỡi. Việc này cho thay thế đường lối kinh doanh trong nước. Thực tế hàng mà Ấn Độä mua chỉ có một số ít là do các công ty người bản địa làm ra mả thôi. Số ít mặt hàng này lại bị luật lệ kìm kẹp, khó có thể gây thêm vốn trong nước.
Những xí nghiệp quốc doanh vẫn còn cả đống, tiền vay nợ không trả được cứ mỗi ngày phồng lên khiến cho hệ thống ngân hàng của Trung quốc bị lâm nguy. Còn Ấn độ tạo dựng các công ty thuộc vào hạng thế giới có thể cạnh tranh được với những công ty khá nhất của Tây phương thường là mũi nhọn về phần mềm (softwares), dược phẩm và kỹ sinh (bio-technology).
Lá bài chủ của Ấn hơn các quốc gia khác là ngôn ngữ Anh (dân Ấn giỏi Anh văn), các truờng học tại Ấn chăm chú vào toán học, nhân tài của Ấn tỏa ra khắp nơi.
Cả chục năm nay, Trung quốc đều nhờ vào tiền bạc và việc đầu tư của Hoa kiều ở tứ tán khắp nơi và cỗ máy kinh tế của Hong Kong và Đài Loan.
Sau những năm không còn đi tứ xứ, Ấn Độ hiện nay hoan nghênh những ai trở về và những người có chất xám nhiều hơn người Trung quốc và đã từng làm rạng danh Ấn Độ tại Silicon Valley.
Coi chừng con rùa Ấn Độ cứ tiếp tục đi, còn con thỏ Trung quốc bắt đầu thở hổn hển.
Song Trung quốc là một nước có sức mạnh làm cho tất cả mọi người phải chú ý tới.
Khi lần đầu tiên Tổng thống Richard Nixon sang Trung quốc, hầu hết người ta cho là vị tổng thống này coi thường Ấn Độ để ve vãn Trung quốc, một nứớc có vũ khi nguyên tử, quốc già này có thể giúp để làm cân bằng với Sô- viết.
Vào năm 1998, Ấn Độ cũng có vũ khi nguyên tử và có thể làm cân bằng với Trung quốc. Nhưng các nhà đầu tư và giới báo chí vẫn chạy theo con đường cũ.
Năm ngoái, vốn nước ngoài đổ vào Trung quốc gấp hai lần rưỡi so với số tiền mà các nước đã bỏ vào Ấn Độ.
Báo giới chỉ đăng thuẩn tin bầu cử tại Ấn Độ, trong khi đó mỗi ngày đều đăng mọi chuyện xẩy ra tại Bắc Kinh.
Cảm kích theo thiên kiến đã có từ thời Mao Trạch Đông cho tới ngày nay. Trong khoảng thập niên 1960 và 1970, Trung quốc đã gáy lên rồi, còùn các nhà hoạch định kinh tế của Ấn Độ lại bị chê dài dài.
Ấn Độ bị chế riễu là kinh tế tăng trưởng theo bản chất Hindu (dân chính gốc Ấn). Dân Trung quốc thì no đủ, có nhà, có cửa, sạch sẽ và ngăn nắp, còn dân Ấn Độ thì rách rưới, nghèo đói, chìm đắm trong thất vọng – một thứ văn minh què quặt, theo như nhà văn V.S. Naipaul của Anh quốc. Người từng lãnh giải Nobel, đã viết.
Neville Maxwell tại đại học Oxford là một người nổi tiếng nhất trong giới trí thức của Tây phương, vào thập niên 1960 và 1970 ông này đã cho rằng Trung quốc đã tìm ra giải đáp về chậm tiến.
Năm 1974 ông Maxwel đã viết, “Mao và đảng của ông ta đã thành công còn Stalin lại bị thất bại thê thảm, hết thuốc chữa; bởi vì họ Mao hiểu rõ nông dân và đặt hết niềm tin vào họ.”
Chuyện này thực chẳng ra làm sao. Chúng ta có thể thấy nguyên nhân và hậu quả của nạn đói năm 1981 mà chủ biên JRK Robson đã đưa ra giả thuyết, nếu nói theo nhà bình luận George Watson thì “Giới trí thức đã bi bịp” vì theo cái luận thuyết cộng sản.
Watson đã cho thấy cái khờ dại của nhà kinh tế học và xã hội học Beatrice Sydney Webb lãnh đạo lao động tại Anh, nhà thơ văn Stephen Spender của Anh và tiểu thuyết gia Andre Gide của Pháp để đưa ra bản tường trình hào nhoáng về cái nền kinh tế của Sô-Viết năm 1930, những người nhìn Trung quốc trong thập niên 1960 và 1970 cũng thấy cái hào nhoáng của ngày nào đó. Trung quốc đã từng đi xin lúa gạo khắp hoàn cầu, trong khi Ấn Độ đã phải tranh đấu để sống trong cái nạn hạn hán làm cho mất mùa năm 1979, không nhập cảng lấy một bao gạo.
Ngay nay họ Mao đã chết từ lâu, Đặng Tiểu Bình cải tổ theo tư bản từng bước, chuyện này được nói tới, nói lui theo một cung cách phức tạp nhiều. Đối với phần đông, nền kinh tế của Trung quốc có tiến bộ, chẳng qua chỉ là bề ngoài mà thôi. Aùp lực lạm phát, cho vay nợ khó đòi, lợi tức gia tăng bất bình đẳng cùng với tội phạm gia tăng làm cho nền kinh tế của Trung quốc có vẻ bấp bênh.
Trong khi đó Ấn Độ từ từ cho tăng tốc và nới lỏng hệ thống theo chủ nghĩa xã hội Fabian (loại chủ nghĩa Marxist xét lại). Sau cuộc khủng hoảng quan trọng năm1901, bộ trưởng tài chánh Manmohan Singh đã đưa ra việc cải tổ lấy thị trường làm chính và mở rộng tài khóa, kinh tế Ấn Độ sẽ không bao giờ đi ngược lại nữa. Kinh tế Ấn tăng trưởng trung bình trên 5 phần trăm và nhờ mùa mưa đã tăng được 8 phần trăm. Ông Singh tin rằng chính phủ Ấn hiện nay cho cải tổ nhiều hơn nên và được nhiều người tán thành, kinh tế tăng truởng trung bình hàng năm 6,5 phần trăm có thể duy trì dễ dàng, theo riêng ông kinh tế Trung quốc hiện thời tăng trưởng quá siêu.
Theo thực tế Ấn Độ là nơi phát triển tốt hơn hết cho tương lai. Thị trường vốn hoạt động có hiểu quả hơn Trung quốc. Thị trường này cũng trong sáng hơn nhiều. Các ông ty có thể hái thêm tiền nếu như cần.
Tuy hệ thống luật pháp của Ấn Độ có quá chậm lại tiền tiến nhất, có thể giải quyết được những vụ cực kỳ rắc rối và phức tạp.
Hệ thống ngân hàng của Ấn Độ tương đối có một số ít tài sản không sinh lời. Chính sách dân chủ và giới truyền thông của Ấn Độ cần phải sống để cung cấp cái van an toàn cho những thay đổi thiếu minh bạch mà việc tăng trưởng theo kinh tế hiện đại đòi phải lôi ra.
Ấn Độ có những đại loạn về tôn giáo, các phong trào ly khai, thành phồ bẩn thỉu và thôn quê nghèo túng. Nhưng các cử tri Ấn Độ hiểu rằng họ có thể bỏ đi những chuyện nhỏ nhặt để bình thường lại.
Hơn nữa việc đầu tư ồ ạt của nước ngoài tại Trung quốc là con dao hai lưỡi. Việc này cho thay thế đường lối kinh doanh trong nước. Thực tế hàng mà Ấn Độä mua chỉ có một số ít là do các công ty người bản địa làm ra mả thôi. Số ít mặt hàng này lại bị luật lệ kìm kẹp, khó có thể gây thêm vốn trong nước.
Những xí nghiệp quốc doanh vẫn còn cả đống, tiền vay nợ không trả được cứ mỗi ngày phồng lên khiến cho hệ thống ngân hàng của Trung quốc bị lâm nguy. Còn Ấn độ tạo dựng các công ty thuộc vào hạng thế giới có thể cạnh tranh được với những công ty khá nhất của Tây phương thường là mũi nhọn về phần mềm (softwares), dược phẩm và kỹ sinh (bio-technology).
Lá bài chủ của Ấn hơn các quốc gia khác là ngôn ngữ Anh (dân Ấn giỏi Anh văn), các truờng học tại Ấn chăm chú vào toán học, nhân tài của Ấn tỏa ra khắp nơi.
Cả chục năm nay, Trung quốc đều nhờ vào tiền bạc và việc đầu tư của Hoa kiều ở tứ tán khắp nơi và cỗ máy kinh tế của Hong Kong và Đài Loan.
Sau những năm không còn đi tứ xứ, Ấn Độ hiện nay hoan nghênh những ai trở về và những người có chất xám nhiều hơn người Trung quốc và đã từng làm rạng danh Ấn Độ tại Silicon Valley.
Coi chừng con rùa Ấn Độ cứ tiếp tục đi, còn con thỏ Trung quốc bắt đầu thở hổn hển.
Gửi ý kiến của bạn