Hôm nay,  

Câu Chuyện Thầy Lang: Hiểu Biết Căn Bản Về Ung Thư

4/7/200600:00:00(View: 7327)
- Cách đây vài thập niên, khi được xác định bị ung thư thì nhiều bệnh nhân rụng rời chân tay, lo sợ. Vì mắc phải ung thư là coi như đời sống sẽ vô cùng ngắn lại. Ngoài ra sự thất vọng cũng gia tăng vì khi đó các hiểu biết về bệnh cũng còn giới hạn.

Sau nhiều năm nghiên cứu, khoa học đã có những khám phá tương đối rõ ràng hơn về nguyên nhân cũng như điều trị và cách thức phòng ngừa bệnh. Nhờ đó một số lớn ung thư có thể chữa khỏi nếu được tìm ra sớm.

Ngày 8 tháng 2 năm 2006, Hội Ung Thư Hoa Kỳ cho hay, lần đầu tiên trong 70 năm vừa qua, số tử vong vì ung thư đã giảm trông thấy. Đó là nhờ sự sớm khám phá ra bệnh và các phương thức trị liệu tân tiến. Ngoài ra ý thức giảm hút thuốc lá của công chúng cũng là đóng góp tích cực trong việc giới hạn bệnh ung thư phổi.

Vài hàng lịch sử.

Ung thư đã được biết tới từ thuở xa xưa.

Danh từ Cancer, được Hippocrates dùng đầu tiên, bắt nguồn từ chữ karcinos có nghĩa là con Cua, ngụ ý diễn tả những u bướu có nhánh tỏa ra chung quanh.

Y giới cổ Hi Lạp cho ung thư là do mất thăng bằng bốn chất lỏng trong cơ thể, nhất là khi mật từ gan tiết ra quá nhiều.

Gallen thì lại cho ung thư là do có quá nhiều máu sau khi cơ thể bị viêm nóng.

Đến thế kỷ 15, một số khoa học gia lại coi hệ bạch huyết có liên hệ tới ung thư.

Khi tế bào được khám phá qua kính hiển vi và được coi như đơn vị căn bản của cơ thể thì hiểu biết về ung thư rõ ràng hơn.

Ngày nay y khoa học đã chứng minh ung thư là do một số tế bào đột nhiên tăng sinh sản một cách bất bình thường và không kiểm soát được.

Diễn tiến ung thư

Nhắc lại là cơ thể được cấu tạo bởi cả nghìn nghìn tỷ đơn vị gọi là tế bào. Tế bào giúp ta thực hiện các chức năng chính của cơ thể như tuần hoàn, hô hấp, tiêu hóa, cử động, suy nghĩ.

Mô bào tăng trưởng và sinh sản tùy theo nhu cầu của cơ thể và trong một trật tự đã được quy định. Một tế bào thành hai, hai thành bốn và liên tục tiếp diễn.

Trong những năm đầu của cuộc đời, tế bào sinh sôi nẩy nở rất nhanh cho tới khi ta trưởng thành. Sau đó tế bào của hầu hết các bộ phận chỉ sinh ra để thay thế tế bào già yếu hoặc bị tiêu hủy vì bệnh hoạn, thương tích.

Khi tế bào tăng sinh một cách vô trật tự, không đáp ứng nhu cầu, không kiểm soát được và mất khả năng tự hủy thì chúng sẽ tạo ra một nhóm gọi là u bướu. U này có thể lành hoặc dữ.

Lành thì thu gọn, ít gây hiểm nghèo cho sức khỏe, không lan tới các nơi khác và có thể mổ cắt bỏ.

Trái lại u ung thư thì nguy hiểm hơn vì chúng lan sang các bộ phận xa gần. Đó là sự di căn. Tế bào ung thư không dính với nhau như tế bào thường, nên ngay từ khi mới thành hình, chúng đã có thể len lỏi vào mạch máu và lưu hành xâm nhập tới các cơ quan gần xa.

Khi di căn như vậy, nơi mà ung thư khởi sự vẫn được coi là ung thư chính. Thí dụ tế bào ung thư nhiếp tuyến chạy vào xương thì vẫn giữ các đặc tính của ung thư nhiếp tuyến. Ung thư gốc này có thể điều hòa sự tăng trưởng của u di căn. Và đôi khi cắt bỏ u gốc lại khiến u di căn lớn nhanh mạnh hơn.

Mới đầu, tế bào ung thư sống nhờ các chất dinh dưỡng thấm qua mạch máu. Sau đó chúng tự tạo ra một hệ thống dẫn máu riêng biệt để tự lực cánh sinh, phá hoại.

Thời gian từ khi tiếp xúc với tác nhân nguy hại tới khi khám phá ra bệnh kéo dài có khi cả mươi mười lăm năm. Đấy là thời gian mà nếu khám phá ra sớm thì có thể ngăn chặn sự thành hình hoặc giới hạn sự lan rộng của tế bào ung thư.

Có nhiều giải thích về sự thay đổi của tế bào ung thư. Xin đan cử một giải thích.

Theo bác sĩ L. Hebert Maurer, đại học Y khoa Darmouth sự hình thành ung thư diễn tiến qua hai giai đoạn:

Tác nhân gây ung thư xâm nhập một tế bào và gây rối loạn cho DNA. DNA là chất có trong mỗi tế bào và điều khiển mọi sinh hoạt của tế bào.

Ở tế bào bình thường, khi bị tổn thương thì DNA có thể sửa chữa được trong khi đó DNA tế bào ung khi bị hư hao thì bất khả tu sửa. Gen DNA này biến đổi và tế bào có khả năng trở thành ác tính.

Tiếp theo là một vài hóa chất trong tế bào lại hỗ trợ sự tăng sinh của tế bào nổi loạn và tạo ra u bướu.

Những rủi ro gây ra ung thư.

Ung thư không phải là một bệnh mà gồm vài trăm loại khác nhau. Chúng có thể xuất phát từ bất cứ nơi nào trong cơ thể với các hung tính riêng biệt.

Ai cũng có thể bị ung thư. Nhưng mắc bệnh hay không tùy thuộc vào một số yếu tố như nơi ở, nghề nghiệp, quá khứ sức khỏe của mỗi cá nhân và gia đình, gen di truyền, nếp sống hàng ngày.

Có nhiều rủi ro đưa tới ung thư mà một số đã được xác định qua dịch tễ học và qua các nghiên cứu khoa học. Đôi khi nhiều rủi ro kết hợp với nhau để gây ra một bệnh ung thư.

a-Tuổi tác.

Theo thống kê, ung thư xẩy ra nhiều hơn ở lớp tuổi ngoài 60. Một trong nhiều lý do là cần thời gian khá lâu để tạo ra các thay đổi trong cấu trúc tế bào trước khi ung thư thành hình và phát triển. Thành ra khi ta sống càng lâu thì càng có nhiều tích tụ các biến đổi bất thường và nhiều nguy cơ bị ung thư.

b- Thay đổi gene và có thể do di truyền. Chẳng hạn một số phụ nữ có sẵn biến đổi gene để bị ung thư nhũ hoa.

c-Do dinh dưỡng.

Một chế độ ăn uống với nhiều chất béo động vật, ít rau, trái cây, chất xơ hoặc một vài chất gia phụ thực phẩm đều có thể gây ra ung thư ruột già..

d-Suy yếu hệ miễn dịch.

Người với hệ miễn dịch suy yếu thường hay mắc một số bệnh ung thư, nhất là ung thư bạch cầu. Đó là những bệnh nhân bị nhiễm HIV, tiếp nhận ghép bộ phận và dùng thuốc ngăn ngừa sự chối từ cơ quan mới..

e-Do siêu vi khuẩn.

Virus bệnh viêm gan loại B có thể đưa tới ung thư gan; virus bệnh mụt cóc cơ quan sinh dục gây ra ung thư cổ tử cung.

g- Hóa chất gây ung thư.

Nhiều hóa chất dùng trong đời sống hàng ngày có thể gây ra ung thư như là:vật liệu cách nhiệt asbestos, vài hóa chất trong sơn với ung thư phổi; vài hóa chất trong thuốc nhuộm tóc gây ung thư bàng quang; benzene với ung thư máu…

h-Ung thư do nếp sống.

Uống rượu quá mức đưa tới ung thư miệng, thực quản; thuốc lá hút, nhai gây ung thư phổi, thực quản, bàng quang, cổ tử cung, tụy tạng; nhai trầu có thể gây ung thư miệng. Chỉ với hút thuốc lá đã là nguyên nhân tử vong của 1/3 bệnh nhân chết vì các loại ung thư.

i-Phóng xạ.

Tia tử ngoại trong nắng mặt trời là rủi ro chính gây ra ung thư da; phóng xạ bom nguyên tử gây ung thư bạch cầu ở nhiều nạn nhân người Nhật vào cuối thế chiến thứ hai; công nhân hầm mỏ tiếp xúc lâu ngày với uranium có thể bị ung thư phổi

Ngoài ra, vài dược phẩm như kích thích tố nữ Diethylstilbestrol đã được coi như rủi ro gây ung thư gan, tử cung; người kém lợi tức bị ung thư nhiều hơn giới trung lưu; tín đồ vài tôn giáo như Mormon và Seventh-Day Adventists ít bị hơn. Có lẽ vì các vị này chừng mực trong đời sống và dinh dưỡng, không rượu, thuốc lá.

Ung thư có thể gây bệnh ở bất cứ tế bào của mọi cơ quan và vào bất cứ tuổi nào. Nhưng nhũ hoa, ruột già, nhiếp tuyến, bao tử, tụy tạng, bàng quang, phổi, da, tử cung là những nơi thường thấy.

Những dấu hiệu của nguy cơ bị ung thư.

Tùy theo loại, ung thư có những dấu hiệu báo trước như sau:

a-Thay đổi thói quen đại tiểu tiện;

b-Một vết thương lâu lành;

c-Xuất huyết hoặc tiết dịch bất thường ở một cơ quan;

d-U cục ở nhũ hoa hoặc các phần mềm;

e-Không tiêu và khó khăn khi nuốt thức ăn;

g-Có những mụt cóc hoặc nốt ruồi mole trên da

h-Ho khan hoặc khản tiếng.

Nếu có một trong những dấu hiệu trên, xin đi khám bác sĩ ngay để được khám nghiệm thêm. Nếu chẳng may bị ung thư thì bệnh sẽ mau khỏi nếu được điều trị sớm.

Khám nghiệm phát hiện ung thư

Cho tới nay, 80% các trường hợp ung thư đều được xác định ở giai đoạn 2 hoặc 3 nên việc điều trị bị giới hạn. Do đó Viện Ung Thư Hoa Kỳ đưa ra các hướng dẫn sau đây để sàng lọc screening một số ung thư trước khi có dấu hiệu bệnh, cũng như để giảm tử vong và có thể áp dụng phương thức trị liệu hữu hiệu, ít tốn kém.

Phụ nữ

a-Tuổi từ 18-39

Ung thư nhũ hoa: Khám nhũ hoa mỗi ba năm do bác sĩ; tự khám mỗi tháng; chụp X-quang nhũ hoa trong tuổi 35-39.

Ung thư cổ tử cung: khám tử cung và làm xét nghiệm tế bào cổ tử cung (Pap Smear) mỗI năm.

b-Tuổi 40 trở lên

Ung thư nhũ hoa và cổ tử cung: như trên.

Đàn ông

a-Tuổi 15 trở lên

Thiếu niên cần tự khám ngọc hành mỗi tháng vì từ tuổi 15 tớI 34 là thời gian có nhiều nguy cơ ung thư hai viên kim cương qúy gíá này.

b-Đàn ông trên 40 tuổi

Hàng năm khám hậu môn để coi tình trạng lớn nhỏ của nhiếp tuyến. Nếu cần làm thử nghiệm mức độ kháng nguyên nhiếp tuyến đặc biệt trong máu Prostate Specific Antigen.

Nam Nư:

a-Tuổi 40-50

Khám hậu môn mỗi năm để phát hiện ung thư trực tràng.

b-Tuổi trên 50

Hàng năm khám hậu môn và thử phân coi có lẫn máu.

Mỗi năm năm làm nội soi trực tràng và ruột già một lần.

Giảm thiểu nguy cơ bị ung thư

Nguyên nhân gây ra ung thư còn nhiều còn nhiều bí ẩn cần xác định, nhưng một số rủI ro gây ra ung thư có thể tránh được.

a-Hút thuốc là là nguyên nhân chính của ung thư phổi; vậy thì không nên hút thuốc. Thuốc lá là nguyên nhân gây tử vong cho 30% trường hợp ung thư phổi.

b-Tránh tiếp cận với ánh nắng gay gắt để giảm thiểu nguy cơ bị ung thư da;

c-Giảm cân; ăn nhiều rau trái cây; giảm muối dể giảm ung thư ruột.

d-Nếu uống rượu thì uống vừa phải;

e-Theo Hội Ung Thư Hoa Kỳ, “ăn uống đúng đắn, tăng hoạt động cơ thể và đừng để mập phì là những phương thức tốt để giảm rủi ro ung thư”.

Kết luận:

Mặc dù sự tiến bộ của y khoa học đã mang lại nhiều triển vọng tốt đẹp trong việc phát hiện và phòng ngừa, nhưng ung thư vẫn còn là bệnh chữa được nhưng tốn công tốn của. Và biến chứng của bệnh cũng rất nhiều. Bệnh nhân chịu những đau đớn về thể chất và tinh thần, với tổn thương trầm kha ở các bộ phận khác như tim, phổi, thần kinh. Họ sẽ ăn mất ngon, ngủ không yên,gầy mòn, ói mửa, kinh phong. Giai đoạn cuối của bệnh là lúc có nhiều khó khăn nhất

Theo bác sĩ Isadore Rosenfeld, giáo sư Trung Tâm Y Khoa Cornel, 35% ung thư có liên hệ tới thực phẩm ăn uống, 30% gây ra do hút thuốc lá, 4% do nghề nghiệp, 3% do tiêu thụ nhiều rượu, 2% do ô nhiễm.

Cho nên nếu áp dụng các phương thức phòng ngừa bệnh để tránh các khó khăn này là điều tưởng như cũng nên làm vậy.

Bác sĩ Nguyễn Ý Đức

Texas-Hoa Kỳ

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Viêm gan C mãn tính hay kinh niên (chronic) là do nhiễm siêu vi trùng C lâu hơn 6 tháng. Siêu vi trùng viêm gan C là một loại siêu vi RNA (ribonucleic acid) đột biến rất nhanh và dễ xâm lấn hệ thống miễn dịch bệnh nhân. Viêm gan C mãn tính gây nguy cơ xơ gan (20%) khoảng 20-25 năm, sau khi bị nhiễm siêu vi trùng viêm gan C
Tim chỉ nhỉnh cỡ bàn tay nắm, nặng khoảng 1 lb, nằm khiêm nhường ở góc trái lồng ngực. Tim rất hiền lành, chăm chỉ làm việc. Mỗi ngày tim co bóp cả 100,000 nhịp, bơm ra gần 7500 lít máu để nuôi dưỡng cơ thể. Tim cũng dạt dào những tình cảm thương yêu, được mọi người nâng niu ca ngợi...
Bs Timothy Broderick, thuộc Đại Học Y Khoa Cincinnati, lần đầu tiên, điều khiển người máy (Robot) lưu động giải phẫu từ xa, qua mạng Internet. Phương tiện giải phẫu từ xa nhờ liên lạc vệ tinh (satellite) và hệ thống thu hình (video) vơí một vận tốc thật cao dùng mạng lưới (Internet). Vận tốc cao độ giữ vai trò nồng cốt trong giải phẫu
Ăn uống đầy đủ chất dinh dưỡng là yếu tố quan trong cho một sức khỏe tốt của mọi người, mọi lứa tuổi nhất là đối với người tuổi cao. Suy-dinh-dưỡng hoặc dinh-dưỡng-sai (Malnutrition) là tình trạng gây ra do mất cân bằng giữa thực phẩm tiêu thụ và nhu cầu năng lượng của cơ thể. Nguyên do có thể
Quý vị có nghĩ rằng những thức ăn con cái mình ăn tốt cho sức khỏe không" Theo tờ Journal of Pediatrics (Tạp Chí Nhi Khoa), trẻ em trước tuổi đến trường trung bình dùng 65 pound lượng đường bỏ thêm trong thức ăn mỗi năm, nhưng chỉ cân nặng từ 30 - 50 pound. Đây là một trong những
Family Physicians April 15, 2006, có hai bài nghiên cứu đáng lưu ý: 1) Phương pháp giải phẫu Roux-en-Y coi là phương pháp thường dùng nhất trong giải phẫu giảm mập. Tỉ số tử vong vì phương pháp giải phẫu trị mập là 1%, và tỉ số công phạt trầm trọng vì giải phẫu là 10%. Điều kiện giải phẫu giảm mỡ là khi yếu tố trọng khối
Nói là “Thông Tim” thì cũng không chính xác lắm. Đúng ra là thông Động Mạch Vành nuôi dưỡng trái tim thân yêu của chúng ta. Thay vì chơn tru mở rộng thì động mạch đã bị thoái hóa, tắc nghẽn với nhiều chất khác nhau bám vào thành của huyết quản. Động Mạch Vành coronary artery bao bọc trái tim như một cái vương miện
Thực vậy, bệnh Phong bây giờ đã được điều trị khỏi bằng sự phối hợp của nhiều dược phẩm với các phương thức phòng chống tàn tật và phẫu thuật phục hồi chức năng. Cách đây mươi thế kỷ, bệnh hoành hành khắp mọi nơi trên thế giới. Ngày nay, số bệnh nhân đã giảm khá nhiều và chỉ
Bs Anna Radomski cùng các cộng sự viên nghiên cứu tác dụng của 4 loại phân tử cực nhỏ (nanoparticles) phản ứng tương tác vào thụ thể tiểu cầu, (glycoprotein integrin receptor). Những phân tử cực nhỏ có kích thước bằng 1 phần tỉ thước có thể lưu động dễ dàng qua phổi và mạch máu
Tôi bị mất ngủ trên 20 năm qua. Hằng đêm đều uống thuốc ngủ mà bịnh mất ngủ vẫn không thuyên giảm, càng lúc càng nặng hơn. Chẳng những không giảm mà còn biến chứng sang bao tử và nhiều hậu quả tai hại khác. Tôi bị sụt cân và gầy ốm. Ngủ không được thì ăn không biết ngon và khó tiêu hóa, đau bao tử nên phải kèm theo
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.