Hôm nay,  

Câu Chuyện Thầy Lang: Dinh Dưỡng Với Bột Ngọt –msg

4/15/200500:00:00(View: 7088)
Mới đây chính quyền Tiểu Bang California ra thông cáo để tham khảo ý kiến công chúng về việc một nhà sản xuất thực phẩm xin cho xịt MSG vào rau và trái cây. MSG là vấn đề đã và đang có nhiều tranh luận tốt xấu, vậy lang tôi xin cùng quý hữu ôn lại chút đỉnh về chất gia phụ thực phẩm lâu đời và rất phổ thông này.
Monosodium Glutamate mà ta thường gọi là Bột Ngọt là chất kết tinh không mùi, mầu trắng nom giống như muối. Dù không có mùi nhưng MSG lại có đặc tính làm nổi bật hương vị của thịt và một số thực phẩm khác. Bột Ngọt Aji No Moto, mà các cụ ta gọi là bột Mỳ Chính, đã một thời nổi tiếng ở Việt Nam mình cách đây trên nửa thế kỷ.
Cấu tạo & Nguồn gốc
Monosoodium Glutamate là hình thức muối sodium của glutamic acid
Glutamic acid là một trong nhiều amino acid có tự nhiên trong chất đạm của thực phẩm động vật như pho mát, sữa, thịt, cá; một số thực vật như cà chua, nấm và trong tế bào cũng như sữa mẹ. Đó là L-glutamic acid.
Trong cơ thể glutamic acid này được tiêu hóa và glutamate được tách rời để dùng cho sự chuyển hóa thực phẩm và trong việc dẫn truyền tín hiệu thần kinh.
Cơ thể cũng tạo ra được khoảng 50 gr glutamate mỗi ngày, cho nên nó được xếp vào nhóm amino acid không cần thiết phải có trong thực phẩm.
Từ nhiều thế kỷ, người Nhật dùng một loại cỏ biển (seaweed) phơi khô để tạo thêm vị
ngọt cho món ăn. Nhưng mãi đến năm 1908, hóa học gia Kikumae Ikeda của đại Học Hoàng Gia Tokyo mới khám phá ra rằng trong rong biển có chất glutamic acid. Ông ta bèn cùng người bạn lập ra Công ty Ajino Moto để chiết acid này từ rong biển và bán ra thị trường. Hiện nay công ty sản xuất quá nửa số MSG trên thế giới. MSG được chế ra từ tinh bột các chất thiên nhiên như đậu nành, bắp, bột mì, gạo, khoai tây, đường mía, củ cải hoặc do tổng hợp của các chất hữu cơ. Sự chế biến này cũng dùng phương thức lên men hóa chất, sức nóng, thủy phân, như trong trường hợp làm rượu bia, giấm hoặc sữa chua.
MSG có 72,2% glutamate, 12,2% muối sodium, 9,6% nước. Glutamate này là D-glutamic acid không có trong đạm tự nhiên thực vật và động vật và được gọi là Glutamic chế biến -Processed Free Glutamic Acid-. Glutamate tự nhiên do sinh vật tạo ra khác với glutamate chế biến này.
Công dụng.
MSG được dùng rất phổ biến và có khả năng làm tăng hương vị cho các món ăn trong khi nấu nướng. Mỗi năm dân chúng trên thế giới tiêu thụ tới cả trăm triệu kí lô MSG.
Theo nhiều chuyên gia ẩm thực, MSG tạo ra một vị đặc biệt trên lưỡi khi ta ăn. Vị này không liên hệ với bốn vị giác căn bản Ngọt, Mặn, Chua và Đắng (bitter). Người Nhật gọi vị đó là Umami. Người Mỹ gọi là savory, tên của một họ thảo bạc hà để nấu ăn, ta gọi là cây húng.
Glutamate là một amino acid mà khi được tự do (không dính vào một protein nào) thì nó có tác dụng làm lộ ra cái hương vị đặc biệt của một thực phẩm (Flavor enhancer). Người Tây Phương bây giờ đã quen thuộc với vị umami này, vì văn hóa thực phẩm Á Châu đã tràn ngập khắp mọi quốc gia.
Sự phát hiện của hương vị Umami đã được nhiều chuyên gia công nhận, trong đó có tiến sĩ Susan Schiffman, giáo sư Đại Học Y Khoa Duke. Khi được mời nếm thử mấy món ăn giống nhau nhưng gia vị khác nhau, thì nhiều người tỏ ý thích món có gia vị bột ngọt. Họ tả món ăn này như là rất phong phú, đậm đà. Hương vị umami đặc biệt đến nỗi là dù có trộn lẫn bốn vị cay, chua, ngọt đắng, cũng không bắt chước hoặc tạo ra được.
Glutamate làm thay đổi hương vị của nhiều món ăn, mỗi món cho một vị đặc biệt. Với thịt, hải sản, vài loại rau, MSG dễ tạo ra hương vị mới, nhất là khi nấu súp, hầm ninh. Nấu phở mà có một chút, một chút thôi, cũng làm hương vị phở ngon hơn.
Bột ngọt thích hợp với vị mặn và chua hơn là vị ngọt của đường trong bánh kẹo. Vì thế khi nấu chè mà cho bột ngọt vào thì rất vô duyên.
Bột ngọt cũng không thể giúp người đầu bếp chuyển một món ăn dở hoặc khi nấu cẩu thả, trở thành ngon.
Nó cũng không thay đổi dạng của thực phẩm, chẳng hạn làm mềm thịt, cá. Và không được dùng để thay thế thực phẩm, vì đây chỉ là một gia vị.
Với người cao tuổi, cho thêm một chút bột ngọt làm cho món ăn trở nên hấp dẫn hơn. Lý do là với tuổi cao, vị giác cũng như khứu giác giảm, khiến các cụ không thấy món ăn là ngon miệng. Cho thêm bột ngọt làm hương vị món ăn cao hơn.
MSG được cho thêm trong nhiều thực phẩm chế biến như nước xúp, nước xốt thịt, soy sauce, đôi khi trong thực phẩm trẻ em nhưng không ghi trong nhãn hiệu.
MSG cũng được thêm vào vài loại xà bông, thuốc gội đầu, mỹ phẩm tóc.
Kỹ nghệ thực phẩm còn có dự định là để tăng hương vị, họ sẽ xịt thêm glutamate vào rau, sà lách, cà chua, đậu phọng, trước khi mang bán.
Theo luật định, khi món ăn có thêm bột ngọt thì nhãn hiệu phải ghi rõ số lượng để người tiêu thụ biết mà đề phòng.
Cách dùng

Bột ngọt được dùng làm gia vị cho thực phẩm trước hoặc trong khi nấu nướng. Đôi khi thêm vào món ăn trong khi ăn. Ta thấy, đã có thời kỳ, trên mâm cơm của đồng hương mình ở Việt Nam có một bát bột ngọt với chiếc thìa nhỏ. Bột ngọt được cho vào bát cơm, canh hoặc dùng để chấm với thịt gà, thịt vịt. Có khi, món canh được nấu chỉ với nước và bột ngọt, không có thịt cá.
Trung bình, chỉ cần thêm nửa thìa cà phê bột ngọt với một kí lô thịt là đủ. Khi cho nhiều quá, bột ngọt chỉ làm món ăn lợ thêm mà thôi.
An toàn
Vấn đề an toàn của MSG chưa được hoàn toàn sáng tỏ và có nhiều ý kiến khác nhau về tác dụng tốt xấu.
Vào năm 1968, bác sĩ Robert Ho Man Kwork đề cập tới tác dụng không tốt của MSG. Ông ta cho hay 20 phút sau khi ăn tại một tiệm ăn Trung Hoa bên Mỹ, ông ta cảm thấy có các triệu chứng như nhức đầu, đau ngực và cổ, mặt nóng hừng hực, tim đập nhanh, tê đầu ngón chân, tay, muốn ói khó thở, tê nơi ngực.Tạp Chí Y Học uy tín New England Journal of Medicine đặt tên cho khó khăn này là Chinese Restaurant Syndrome. Sau đó nhiều thực khách khác cũng nêu ra các khó khăn tương tự khi ăn cơm Tầu và nghi rằng thủ phạm là monosodium glutamate.
Năm 1969, bác sĩ John Olsney công bố trên báo Science là khi tiếp xúc với MSG, tế bào thần kinh của chuột trong phòng thí nghiệm bị tổn thương. Bác sĩ Olsney cũng ra điều trần tại Quốc Hội Hoa Kỳ vào năm 1972 về những rủi ro do MSG gây ra nhất là cho tế bào thần kinh trẻ em. Vì thế MSG đã được loại bỏ khỏi thực phẩm cho các em bé vào thập niên 1970.
Nghiên cứu của Hiroshi Ohguro, đại Học Hirosaki Nhật Bản cho hay với số lượng cao, monosodium glutamate sẽ kết tụ và gây tổn thương võng mạc của loài chuột trong phòng thí nghiệm. Bác sĩ Peng Tee Khaw, chuyên gia về bệnh tăng huyết áp nhãn ở Luân đôn cũng đồng ý như vậy. Theo ông, dùng MSG ít nhưng trong thời gian lâu sẽ là rủi ro của cao nhãn áp khi đến tuổi cao.
Bác sĩ Russel Blaylock, chuyên gia giải phẫu thần kinh, gọi MSG là một chất độc cho vài loại tế bào thần kinh (Exitotoxins).
Một bác sĩ khác, George Swartz, đã xuất bản một cuốn sách nhan đề “ In Bad Taste: The MSG Syndrome”, trong đó ông nêu ra những tác dụng xấu của chất gia vị này.
Nhiều người còn nói rằng MSG có thể có liên hệ tới bệnh Alzheimer, kinh phong, u não, trẻ em quá năng động.
Trong khi đó thì các nhà sản xuất MSG cũng công bố kết quả nhiều nghiên cứu cho hay MSG an toàn khi dùng theo liều lượng do họ chỉ dẫn. Nhưng họ cũng thừa nhận rằng có nhiều người mẫn cảm với MSG.
Bên Hoa Kỳ, Cơ Quan Thực Phẩm và Dược Phẩm (FDA) nhận được nhiều than phiền về MSG. Năm 1959, cơ quan đã xếp MSG vào danh sách các “chất được coi một cách chung chung như an toàn” cùng với các gia vị khác như muối, dấm, bột nở-baking powder. MSG được cho phép dùng trong kỹ nghệ thực phẩm từ năm 1963. Vì dân chúng quá quan tâm. Cơ Quan mướn một tồ chức chuyên về nghiên cứu để xem xét kết quả của cả trăm tường trình khoa học về tác dụng xấu tốt của MSG. Tổ chức này đưa ra các nhận xét như sau:
“a-Một số người có thể phản ứng với MSG và có một vài dấu hiệu phức tạp như sau: Cảm giác nóng bỏng ở sau cồ, ngực và cánh tay; cảm giác tê ở gáy, chạy xuống tay và lưng; châm nhói, nóng và yếu nới mặt, thái dương, lưng trên, gáy và tay; đau nơi ngực; nhức đầu, buồn nôn; tim đập nhanh; khó thở; buồn ngủ, yếu sức. đó là Hợp Chứng MSG( MSG Symptoms Complex).
b-Người khỏe mạnh mà bất dung (intolerant) với MSG, các dấu hiệu trên xẩy ra khoảng một giờ sau khi tiêu thụ từ 3 gram MSG trở lên, khi bụng đói hoặc khi không ăn thực phẩm;
c-Bị bệnh suyễn nặng có thể khiến các dấu hiệu trên dễ dàng xẩy ra;
d- Không có bằng chứng nào về việc MSG là rủi ro đưa tới bệnh Alzheimer,sa sút trí tuệ, hoặc các bệnh kinh niên;
e-Chưa có bằng chứng nào về việc MSG làm tổn thương tế bào thần kinh ở loài người..”
Kết quả này dường như thỏa mãn FDA nhưng giới tiêu thụ vẫn cho là MSG có tác dụng không tốt cho sức khỏe. Họ đòi hỏi có nhiều nghiên cứu rộng rãi, khách quan hơn.
Cơ quan FDA thì vẫn duy trì lập trường: khi dùng lâu, nhưng vừa phải, từ 0.1 tới 0.3% trọng lượng món ăn, bột ngọt không gây ảnh hưởng xấu cho sức khỏe con người.
Cơ quan Y Tế Thế Giới khuyên rằng nên hạn chế bột ngọt chừng nào hay chừng nấy và không cho trẻ em dưới sáu tuổi dùng.
Ngoài ra, theo quy luật của FDA, bất cứ món ăn nào có MSG đều phải được ghi trên nhãn hiệu đề công chúng biết mà đề phòng, nếu đã có khó khăn với chất gia phụ này. MSG hiện nay đã được pha thêm vào nhiều thực phẩm, kể cả vài loại nước uống chế biến sẵn hoặc rau trái cây tươi, khô.
Cũng nên lưu ý rằng Bột ngọt có một số muối sodium, nên người bị cao huyết áp, bệnh thận hoặc tim cần để ý. Và nếu thường xuyên dùng bột ngọt thay cho chất đạm của thịt cá, rau trái sẽ đưa tới thiếu các chất dinh dưỡng căn bản, cơ thể sẽ suy yếu.
Cho nên”thoang thoảng hoa nhài” một chút bột ngọt để thêm hương vị cho món ăn có lẽ là thái độ khôn ngoan, an toàn hơn.
Bác sĩ Nguyễn Ý-đức
Texas-USA

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Nghiên cứu mới nhất cho thấy có bằng chứng rằng trầm cảm không phải là do “mất cân bằng hóa học” trong não – cụ thể là sự mất cân bằng của một chất hóa học gọi là serotonin. Trong suốt ba thập niên, mọi người đã bị “nhồi sọ” rằng trầm cảm là do “mất cân bằng hóa học” trong não – cụ thể là sự mất cân bằng của một chất hóa học gọi là serotonin. Tuy nhiên, nghiên cứu mới nhất của Joanna Moncrieff (Giáo Sư lâm sàng cao cấp, Khoa tâm thần học xã hội và phê bình, UCL) và Mark Horowitz (Nghiên cứu lâm sàng về Tâm thần học, UCL) cho thấy có bằng chứng không hỗ trợ điều đó. Nghiên cứu được đăng trên trang TheConversation.
Giăng biểu ngữ. Cầm bảng. Biểu tình. Hăm dọa… Chiến thắng. Thất vọng. Reo hò. Giận dữ. Cười, Khóc. …như một trận đấu football chuyện nghiệp chung kết hoặc trận túc cầu vô địch quốc tế, nhưng tệ hơn vì hai bên thua và thắng, từ cầu thủ cho đến người ủng hộ sinh lòng oán hận nhau. Chuyện này tạm gọi là “Trận Đấu Bầu,” mà trọng tài là chín thẩm phán Tối Cao Pháp Viện. Nói cho công bằng, cả hai phe: giữ bầu và phá bầu đều có lý do chính đáng, đều có thể thuyết phục đa số nếu cả hai phe đừng ngoan cố chèn ép lẫn nhau, có lẽ vì lòng hiếu thắng hơn là lợi ích, vì lợi ích trực tiếp ở nơi người có bầu hoang, bầu không được thừa nhận, không phải thuộc về đa số người không có kinh hoặc đã tắt kinh. Trong thiên nhiên ngàn năm vẫn vậy, từ chiếc nụ nở thành hoa cho đến khi đơm trái, biết bao nhiêu ong bướm dập dìu, mang phấn nhụy đi reo rắc dòng dõi khắp nơi trên mặt đất.
Chứng nhức đầu “migraine” đang hành hạ hơn 1 tỷ người và là nguyên nhân gây tàn tật đứng hàng thứ hai trên toàn thế giới. Ở Hoa Kỳ, cứ 4 gia đình thì có 1 gia đình mà trong đó có ít nhất một thành viên bị chứng đau nhức đầu, với những cơn đau dồn dập, kinh niên. Mỗi năm, ước tính có khoảng 85.6 triệu ngày nghỉ ốm là do bệnh đau đầu.
Lavender (Oải Hương) là một loài hoa rất phổ biến với các nền văn hóa phương Tây. Với người Việt – đặc biệt là người Việt ở Mỹ- trong vài thập niên qua cũng đã bắt đầu quen thuộc với loài hoa màu tím có hương thơm đặc trưng này. Lavender có tên khoa học là Lavendula, là một loại cây thuộc chi Oải Hương (Lavandula), là loại cây bụi có hoa mùi thơm nồng, xuất xứ từ vùng Địa Trung Hải. Cây hoa Oải Hương đã được biết đến cách đây hàng ngàn năm ở Châu Âu từ thời Hy Lạp cổ đại. Đó là nguồn cung cấp tinh dầu oải hương, được xem như là một thảo dược hữu dụng từ thuở xa xưa. Do mùi hương thơm sạch có tính chất đuổi côn trùng, có tính sát trùng, tinh dầu oải hương được ứng dụng rộng rãi để giúp thư giãn cơ thể, giúp làm lành vết thương, sát khuẩn nhẹ…
Cho đến nay, hầu hết các nỗ lực điều trị bệnh Alzheimer đều tập trung vào việc loại bỏ các dấu hiệu của căn bệnh: các mảng và đám chất độc tích tụ trong não. Những nỗ lực đó đưa đến việc sản xuất ra các loại thuốc có thể làm giảm các mảng và đám, nhưng vẫn chưa có tác dụng gì nhiều để duy trì tư duy và trí nhớ. Các kết quả mới nhất với dịch tủy sống cho thấy các phương pháp điều trị khác có thể có hiệu quả, ngay cả khi chúng không ảnh hưởng đến quá trình cơ bản của căn bệnh.
Ngày 24 tháng 3 là Ngày Lao Phổi Quốc Tế. Lao Phổi là một trong những bệnh truyền nhiễm gây tử vong hàng đầu trên thế giới. Có đến 13 triệu người tại Hoa Kỳ đang sống chung với nhiễm Lao tiềm ẩn. Nếu không được chữa trị, 5-10% sẽ tiến triển thành bệnh Lao Phổi. Tuy nhiên, nhiều người vẫn tưởng rằng Lao Phổi không còn là một vấn đề đáng quan tâm nữa.
Hôm nay, CDC và FDA tuyên bố là chính phủ cho phép chích mũi vaccine thứ tư cho những người từ 50 tuổi trở lên và cả những người từ 12 tuổi trở lên nhưng cơ thể không thể kháng bệnh như người bình thường. Các cơ quan liên bang đã đi đến quyết định này vì họ sợ rằng con vi khuẩn omicron có thể sẽ mang đến nhiều hiểm họa cho Hoa kỳ, tương tự như những gì đã xẩy ra cho châu Âu. -- Xin đọc bài viết rất thiết yếu cho sức khỏe của tất cả chúng ta, của bác sĩ Nguyễn C. Cường. Việt Báo trân trọng giới thiệu.
Sức khỏe rất quan trọng đối với mọi người mà thực phẩm đóng vai trò quan trọng trong lãnh vực này...
Đông y, còn được gọi là y học cổ truyền Trung Quốc, là một hệ thống y tế lâu đời nhất được biết đến trên thế giới. Không như Tây y, Đông y tập trung vào một sinh lực gọi là “Khí” (hay chi) lưu chuyển trong cơ thể, và khi bị tổn thương, cơ thể sẽ dễ mắc bệnh. Các bác sĩ tìm hiểu căn cơ dẫn đến sự mất cân bằng về tinh thần và thể chất, sau đó thực hiện một cách tiếp cận toàn diện để chữa lành và phục hồi khí cho bệnh nhân.
Thường thường phải có thời gian trung bình là từ ba tới sáu tháng để một móng mọc ra từ gốc tới đầu của móng.Hướng mọc của móng được một lớp da mỏng mọc theo chiều cong ở đáy của móng. Miễn là nơi này của móng không bị tiêu hủy, các thương tích của móng có khuynh hướng kích thích sự tăng trưởng cho tới khi nó lành trở lại.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.