Trong thời tranh cử, cả hai đảng Cộng hòa và Dân chủ đều khởi đầu bằng lập trường rất khuynh hữu (CH) hoặc thiên tả (DC), để rồi cuối cùng sẽ lại chọn con đường trung dung ở giữa...
Lần này, có thể là đảng Dân chủ sẽ nghiêng về cánh tả, và nằm tả tơi ở đó....
Năm 1987, Phó tổng thống George Bush nói riêng trong xe hơi với Tổng bí thư Mikhail Gorbachev của Liên xô, rằng ông sẽ ra tranh cử tổng thống, và muốn như vậy sẽ lấy lập trường cực hữu lúc đầu để thắng vòng sơ bộ. Một khi được là ứng viên chính thức của đảng Cộng hòa và nếu đắc cử, ông sẽ hợp tác cùng Gorbachev để giải quyết vụ khủng hoảng của chế độ Xô viết một cách ôn hòa. Vì vậy, George Bush dặn trước Mikhail Gorbachev là đừng khó chịu khi ông mở màn tranh cử bằng lập trường chống cộng gay gắt và sẽ kịch liệt đả kích Liên xô. Trong cả đế quốc Xô viết khi đó, tin lời ông Bush là Gorbachev (và Ngoại trưởng Xô viết Eduard Shevarnadze, đương kim Tổng thống Cộng hòa Georgia). Các nhân vật khác trong Bộ chính trị Liên xô đều khó chịu về chủ trương chống cộng quá khích của ứng cử viên George Bush.
Mikhail Gorbachev hiểu rõ quy luật chính trị của Hoa Kỳ nhiều hơn người ta nghĩ.
Lăng ba vi bộ trong chính trị
Từ đảng Cộng hòa, muốn được làm đại biểu chính thức thì trước hết phải ngả qua bên phải để qua ải cực hữu rồi trở về cánh trung hữu khi cầm quyền. Ngược lại, từ đảng Dân chủ, các ứng viên sơ bộ vào vòng tranh cử tổng thống cũng ưa ngả qua bên trái trước khi có hy vọng đắc cử và áp dụng đường lối trung tả một khi có ấn tín trong tay.
Bill Clinton là người hiểu ra điều đó có khi chậm hơn Gorbachev. Năm 1992, sau khi thắng cử ông đã muốn thực hiện chương trình kinh tế ông thai nghén từ Arkansas, với sự cố vấn của phu nhân. Bộ trưởng Ngân khố tân nhậm của ông, Nghị sĩ Dân chủ Loyd Bentsen của tiểu bang Texas, và Thứ trưởng Robert Rubin, một doanh gia trong lãnh vực tài chánh, là những người đánh thức ông khỏi giấc mơ đó bằng cách trình bày cho Clinton rõ cái hóa đơn, những phí tổn kinh tế, của một chương trình hành động sặc mùi xã hội như vậy. Là người cực kỳ thông minh, Bill Clinton hiểu ra sự thể rất nhanh nên lập tức đảo ngược lập trường và áp dụng chánh sách kinh tế ôn hòa, với nhiều sáng kiến lấy của đối phương. Nhờ đó, ông được coi là một vị tổng thống sáng giá của đảng Dân chủ.
Đảng Dân chủ, con tin của cánh tả
Nhưng, trong cuộc tranh cử tổng thống 2004, có thể là đảng Dân chủ sẽ ngả qua bên trái và ngã ngay tại đó. Nhận xét này là của một nhân vật có uy tín trong đảng Dân chủ, cựu Dân biểu, cựu Tổng giám đốc Ngân sách rồi Đổng lý Văn phòng của Bill Clinton là Leon Panetta. Lý do là các ứng viên tổng thống trong vòng sơ bộ lần này đều trở thành con tin của các nhóm áp lực cánh tả (nghiệp đoàn, hiệp hội tranh đấu cho nữ quyền, thiểu số da màu – không có da vàng – phe phản chiến, các tổ chức bảo vệ môi sinh, các nhóm vận động quyền phá thai và đồng tính, v.v...) Một thí dụ là Chủ tịch Nghị hội Dân chủ Toàn quốc Terry McAuliffe, một nhân vật thân tín của Bill Clinton, chưa gì đã bị các lãnh tụ da đen và Latino tấn công là ít quan tâm đến quyền lợi của thiểu số da màu. Các ứng viên này trở thành con tin của các trung tâm quyền lực tả khuynh vì phải cam kết những điều bất khả và không thể tranh thủ được lá phiếu trung dung vì những cam kết đó.
Tính đến tháng Sáu năm 2003, trong số các ứng viên Dân chủ của vòng sơ bộ (nhiều người sẽ thành vang bóng một thời nên chả cần được nhắc đến ở đây), chưa thấy nhân vật nào có bản lãnh vượt qua cửa ải thiên tả này. Trong số vài người tương đối có hy vọng, như các Nghị sĩ Joe Lieberman, John Kerry, John Edwards hoặc Dân biểu Dick Gephardt, thì lập trường thiên tả vốn là niềm tin cố hữu của họ. Một nhân vật năng nổ là John Edwards thì đã từ cánh trung tả, gần với lập trường của Joe Lieberman, người có hy vọng cao nhất trong hiện tại, để lăn qua lập trường cực tả và đả kích Dân biểu Gephardt là... hữu khuynh, có tư tưởng kinh tế kiểu Ronald Reagan! Nói cách khác, trong vòng sơ bộ, các ứng viên Dân chủ đã ngày càng trở thành cực tả, đến nỗi có khi không thể quay trở lại một lập trường tương đối trung dung ôn hòa. Yếu tố đó là điều mà dư luận nên để ý khi theo dõi việc chuẩn bị tranh cử trong nội bộ đảng Dân chủ.
Đảng Dân chủ hoài cổ
Nhưng, đáng quan tâm hơn nữa là các ứng viên Dân chủ trong vòng tranh cử tổng thống đều có khuynh hướng tạm gọi là “hoài cổ”. Họ tranh cử trên các đề mục của quá khứ.
Căn cứ trên các cuộc tranh luận ở vòng sơ bộ, ta thấy sự hồi sinh của xu hướng phản chiến (người Việt gọi là “ngụy hòa” vì nhớ lại kinh nghiệm phản chiến thời 1968 về sau: chỉ chống chiến tranh của Mỹ, không nói gì đến bộ đội chính quy của Hà Nội ở trong Nam hoặc sự hỗ trợ của Liên xô và Trung Quốc cho miền Bắc). Ngoài trường hợp lẻ loi của Nghị sĩ Joe Lieberman (ứng viên Phó tổng thống trong liên danh Gore-Lieberman năm 2000) là người ủng hộ cuộc chiến, hầu hết các ứng viên Dân chủ trong vòng sơ bộ đều chống lại việc Mỹ tấn công Iraq. Nghị sĩ John Kerry, một cựu chiến binh tại Việt Nam thì “đồng ý, nhưng mà...” Sau khi Liên quân thắng thế tại Iraq, các ứng viên phản chiến (Al Sharpton, Carol Moseley Braun và Dennis Kucinich) đều nổi bật ở việc bới lông tìm vết, xem chính quyền Bush có phạm lỗi lầm nào khác tại Iraq để tấn công. Một ứng viên phản chiến khác là Howard Dean thì kín đáo nín thinh, nhích gần tới John Kerry, và khi khủng bố tấn công tại Saudi Arabia thì trở thành.... chủ chiến.
Ngoài lập trường chiến-hòa mông lung, ngần ấy ứng viên Dân chủ đều quay về quá khứ để tìm phương thuốc bí truyền, mệnh danh Clinton. Joe Lieberman là Nghị sĩ Dân chủ hiếm hoi đã đả kích ông Clinton về những tai tiếng trong vụ Monica Lewinsky năm xưa. Lần này, ông công khai ngợi khen sự nghiệp Clinton. Các ứng viên khác như Gephardt hay Dean hay Kerry đều không ngớt lời ca tụng thành tích Clinton. Người tưởng thật trong vụ này là... Bill Clinton. Ông gây ra cuộc tranh luận xem là có nên tu chính Hiến pháp để một (cựu) tổng thống (như ông) có trể tranh cử cho nhiệm kỳ thứ ba không! Trong khi các đảng viên Dân chủ cố gắng kéo ánh đèn về phía mình thì trên sân khấu chính trị Mỹ, một bóng ma của quá khứ vẫn chưa chịu lặn là Bill Clinton, chưa nói gì đến Nghị sĩ Hillary Rodham Clinton, với cuốn hồi ký của bà. Dick Morris, một cố vấn chính trị của ông Clinton trong suốt 20 năm và là nhà kiến trúc cho cuộc tái đắc cử năm 1996 của Clinton, đã chua chát nhận xét là nếu ông Clinton chưa chịu đi xuống khi màn đã hạ thì đảng Dân chủ sẽ bị hại lớn trong năm 2004.
Nào chỉ dân ta mới có câu thành ngữ “sợ bị đời quên”!
Bên cạnh chiến tranh và Clinton, các ứng viên Dân chủ còn có tinh thần hoài cổ ở khẩu hiệu “đấu tranh giai cấp” và kịch liệt đả kích nhau để tranh thủ đại chúng bằng khẩu hiệu bình dân nhuốm mùi mị dân. Trong đạo luật giảm thuế ông Bush ký ngày 28 tháng Năm vừa qua, ngần ấy ứng viên đều nói đến một hậu quả là giới giàu có được giảm thuế mà lờ hẳn tác dụng thuế khóa cho thành phần nghèo túng. Đó là đấu tranh chính trị bình thường trong sự thiên lệch của nó. Nhưng, đáng chú ý hơn nữa là khi John Edwards tấn công Dick Gephardt tội thiên hữu và “móc tiền của quần chúng nhân dân lao động” trong khi mình mới là đại biểu chân chính của quần chúng đó. Dick Gephardt từng là Trưởng khối đa số Dân chủ tại Hạ viện và kịch liệt tranh đấu cho các nghiệp đoàn và giới lao động mà còn lãnh cái nón hữu khuynh thì ta thấy các ứng viên Dân chủ đã lạc qua bên trái đến chừng nào.
Trong một năm nữa, ít ai còn nói đến chùm ứng viên Dân chủ như Al Sharpton hay Carol Moseley Braun, Dennis Kucinich, Robert Graham, John Edwards hoặc cả Howard Dean sẽ rụng như sung. Trong mọi cuộc tranh cử, phe đối lập luôn ở thế yếu như vậy trước đối phương đang nắm quyền và ra tái ứng cử, cựu Nghị sĩ Bob Dole không quên kinh nghiệm đó năm 1996. Nhưng, lần này, ngay từ vòng sơ bộ, người ta đã thấy các cuộc tranh luận trong đảng Dân chủ đều hoặc là quá tả hoặc hoài cổ và chưa làm nổi bật những ưu điểm thực tiễn của mình, ngoài việc đả kích chính quyền Cộng hòa đương nhiệm.
Chúng ta còn chừng một năm để xem đảng Dân chủ có kịp dừng bước giang hồ để tìm ra một đề mục thiết thực hơn hay chăng.
(19.06.2003)
Lần này, có thể là đảng Dân chủ sẽ nghiêng về cánh tả, và nằm tả tơi ở đó....
Năm 1987, Phó tổng thống George Bush nói riêng trong xe hơi với Tổng bí thư Mikhail Gorbachev của Liên xô, rằng ông sẽ ra tranh cử tổng thống, và muốn như vậy sẽ lấy lập trường cực hữu lúc đầu để thắng vòng sơ bộ. Một khi được là ứng viên chính thức của đảng Cộng hòa và nếu đắc cử, ông sẽ hợp tác cùng Gorbachev để giải quyết vụ khủng hoảng của chế độ Xô viết một cách ôn hòa. Vì vậy, George Bush dặn trước Mikhail Gorbachev là đừng khó chịu khi ông mở màn tranh cử bằng lập trường chống cộng gay gắt và sẽ kịch liệt đả kích Liên xô. Trong cả đế quốc Xô viết khi đó, tin lời ông Bush là Gorbachev (và Ngoại trưởng Xô viết Eduard Shevarnadze, đương kim Tổng thống Cộng hòa Georgia). Các nhân vật khác trong Bộ chính trị Liên xô đều khó chịu về chủ trương chống cộng quá khích của ứng cử viên George Bush.
Mikhail Gorbachev hiểu rõ quy luật chính trị của Hoa Kỳ nhiều hơn người ta nghĩ.
Lăng ba vi bộ trong chính trị
Từ đảng Cộng hòa, muốn được làm đại biểu chính thức thì trước hết phải ngả qua bên phải để qua ải cực hữu rồi trở về cánh trung hữu khi cầm quyền. Ngược lại, từ đảng Dân chủ, các ứng viên sơ bộ vào vòng tranh cử tổng thống cũng ưa ngả qua bên trái trước khi có hy vọng đắc cử và áp dụng đường lối trung tả một khi có ấn tín trong tay.
Bill Clinton là người hiểu ra điều đó có khi chậm hơn Gorbachev. Năm 1992, sau khi thắng cử ông đã muốn thực hiện chương trình kinh tế ông thai nghén từ Arkansas, với sự cố vấn của phu nhân. Bộ trưởng Ngân khố tân nhậm của ông, Nghị sĩ Dân chủ Loyd Bentsen của tiểu bang Texas, và Thứ trưởng Robert Rubin, một doanh gia trong lãnh vực tài chánh, là những người đánh thức ông khỏi giấc mơ đó bằng cách trình bày cho Clinton rõ cái hóa đơn, những phí tổn kinh tế, của một chương trình hành động sặc mùi xã hội như vậy. Là người cực kỳ thông minh, Bill Clinton hiểu ra sự thể rất nhanh nên lập tức đảo ngược lập trường và áp dụng chánh sách kinh tế ôn hòa, với nhiều sáng kiến lấy của đối phương. Nhờ đó, ông được coi là một vị tổng thống sáng giá của đảng Dân chủ.
Đảng Dân chủ, con tin của cánh tả
Nhưng, trong cuộc tranh cử tổng thống 2004, có thể là đảng Dân chủ sẽ ngả qua bên trái và ngã ngay tại đó. Nhận xét này là của một nhân vật có uy tín trong đảng Dân chủ, cựu Dân biểu, cựu Tổng giám đốc Ngân sách rồi Đổng lý Văn phòng của Bill Clinton là Leon Panetta. Lý do là các ứng viên tổng thống trong vòng sơ bộ lần này đều trở thành con tin của các nhóm áp lực cánh tả (nghiệp đoàn, hiệp hội tranh đấu cho nữ quyền, thiểu số da màu – không có da vàng – phe phản chiến, các tổ chức bảo vệ môi sinh, các nhóm vận động quyền phá thai và đồng tính, v.v...) Một thí dụ là Chủ tịch Nghị hội Dân chủ Toàn quốc Terry McAuliffe, một nhân vật thân tín của Bill Clinton, chưa gì đã bị các lãnh tụ da đen và Latino tấn công là ít quan tâm đến quyền lợi của thiểu số da màu. Các ứng viên này trở thành con tin của các trung tâm quyền lực tả khuynh vì phải cam kết những điều bất khả và không thể tranh thủ được lá phiếu trung dung vì những cam kết đó.
Tính đến tháng Sáu năm 2003, trong số các ứng viên Dân chủ của vòng sơ bộ (nhiều người sẽ thành vang bóng một thời nên chả cần được nhắc đến ở đây), chưa thấy nhân vật nào có bản lãnh vượt qua cửa ải thiên tả này. Trong số vài người tương đối có hy vọng, như các Nghị sĩ Joe Lieberman, John Kerry, John Edwards hoặc Dân biểu Dick Gephardt, thì lập trường thiên tả vốn là niềm tin cố hữu của họ. Một nhân vật năng nổ là John Edwards thì đã từ cánh trung tả, gần với lập trường của Joe Lieberman, người có hy vọng cao nhất trong hiện tại, để lăn qua lập trường cực tả và đả kích Dân biểu Gephardt là... hữu khuynh, có tư tưởng kinh tế kiểu Ronald Reagan! Nói cách khác, trong vòng sơ bộ, các ứng viên Dân chủ đã ngày càng trở thành cực tả, đến nỗi có khi không thể quay trở lại một lập trường tương đối trung dung ôn hòa. Yếu tố đó là điều mà dư luận nên để ý khi theo dõi việc chuẩn bị tranh cử trong nội bộ đảng Dân chủ.
Đảng Dân chủ hoài cổ
Nhưng, đáng quan tâm hơn nữa là các ứng viên Dân chủ trong vòng tranh cử tổng thống đều có khuynh hướng tạm gọi là “hoài cổ”. Họ tranh cử trên các đề mục của quá khứ.
Căn cứ trên các cuộc tranh luận ở vòng sơ bộ, ta thấy sự hồi sinh của xu hướng phản chiến (người Việt gọi là “ngụy hòa” vì nhớ lại kinh nghiệm phản chiến thời 1968 về sau: chỉ chống chiến tranh của Mỹ, không nói gì đến bộ đội chính quy của Hà Nội ở trong Nam hoặc sự hỗ trợ của Liên xô và Trung Quốc cho miền Bắc). Ngoài trường hợp lẻ loi của Nghị sĩ Joe Lieberman (ứng viên Phó tổng thống trong liên danh Gore-Lieberman năm 2000) là người ủng hộ cuộc chiến, hầu hết các ứng viên Dân chủ trong vòng sơ bộ đều chống lại việc Mỹ tấn công Iraq. Nghị sĩ John Kerry, một cựu chiến binh tại Việt Nam thì “đồng ý, nhưng mà...” Sau khi Liên quân thắng thế tại Iraq, các ứng viên phản chiến (Al Sharpton, Carol Moseley Braun và Dennis Kucinich) đều nổi bật ở việc bới lông tìm vết, xem chính quyền Bush có phạm lỗi lầm nào khác tại Iraq để tấn công. Một ứng viên phản chiến khác là Howard Dean thì kín đáo nín thinh, nhích gần tới John Kerry, và khi khủng bố tấn công tại Saudi Arabia thì trở thành.... chủ chiến.
Ngoài lập trường chiến-hòa mông lung, ngần ấy ứng viên Dân chủ đều quay về quá khứ để tìm phương thuốc bí truyền, mệnh danh Clinton. Joe Lieberman là Nghị sĩ Dân chủ hiếm hoi đã đả kích ông Clinton về những tai tiếng trong vụ Monica Lewinsky năm xưa. Lần này, ông công khai ngợi khen sự nghiệp Clinton. Các ứng viên khác như Gephardt hay Dean hay Kerry đều không ngớt lời ca tụng thành tích Clinton. Người tưởng thật trong vụ này là... Bill Clinton. Ông gây ra cuộc tranh luận xem là có nên tu chính Hiến pháp để một (cựu) tổng thống (như ông) có trể tranh cử cho nhiệm kỳ thứ ba không! Trong khi các đảng viên Dân chủ cố gắng kéo ánh đèn về phía mình thì trên sân khấu chính trị Mỹ, một bóng ma của quá khứ vẫn chưa chịu lặn là Bill Clinton, chưa nói gì đến Nghị sĩ Hillary Rodham Clinton, với cuốn hồi ký của bà. Dick Morris, một cố vấn chính trị của ông Clinton trong suốt 20 năm và là nhà kiến trúc cho cuộc tái đắc cử năm 1996 của Clinton, đã chua chát nhận xét là nếu ông Clinton chưa chịu đi xuống khi màn đã hạ thì đảng Dân chủ sẽ bị hại lớn trong năm 2004.
Nào chỉ dân ta mới có câu thành ngữ “sợ bị đời quên”!
Bên cạnh chiến tranh và Clinton, các ứng viên Dân chủ còn có tinh thần hoài cổ ở khẩu hiệu “đấu tranh giai cấp” và kịch liệt đả kích nhau để tranh thủ đại chúng bằng khẩu hiệu bình dân nhuốm mùi mị dân. Trong đạo luật giảm thuế ông Bush ký ngày 28 tháng Năm vừa qua, ngần ấy ứng viên đều nói đến một hậu quả là giới giàu có được giảm thuế mà lờ hẳn tác dụng thuế khóa cho thành phần nghèo túng. Đó là đấu tranh chính trị bình thường trong sự thiên lệch của nó. Nhưng, đáng chú ý hơn nữa là khi John Edwards tấn công Dick Gephardt tội thiên hữu và “móc tiền của quần chúng nhân dân lao động” trong khi mình mới là đại biểu chân chính của quần chúng đó. Dick Gephardt từng là Trưởng khối đa số Dân chủ tại Hạ viện và kịch liệt tranh đấu cho các nghiệp đoàn và giới lao động mà còn lãnh cái nón hữu khuynh thì ta thấy các ứng viên Dân chủ đã lạc qua bên trái đến chừng nào.
Trong một năm nữa, ít ai còn nói đến chùm ứng viên Dân chủ như Al Sharpton hay Carol Moseley Braun, Dennis Kucinich, Robert Graham, John Edwards hoặc cả Howard Dean sẽ rụng như sung. Trong mọi cuộc tranh cử, phe đối lập luôn ở thế yếu như vậy trước đối phương đang nắm quyền và ra tái ứng cử, cựu Nghị sĩ Bob Dole không quên kinh nghiệm đó năm 1996. Nhưng, lần này, ngay từ vòng sơ bộ, người ta đã thấy các cuộc tranh luận trong đảng Dân chủ đều hoặc là quá tả hoặc hoài cổ và chưa làm nổi bật những ưu điểm thực tiễn của mình, ngoài việc đả kích chính quyền Cộng hòa đương nhiệm.
Chúng ta còn chừng một năm để xem đảng Dân chủ có kịp dừng bước giang hồ để tìm ra một đề mục thiết thực hơn hay chăng.
(19.06.2003)
Gửi ý kiến của bạn