Hồ Thanh Nhã
Cây cầu anh Tèo
Ai đã có lần đi qua chiếc cầu treo
Cuối bản Cu Pua vùng cao Quãng Trị
Mới thấy thót tim
Mỗi lần qua suối
Hai sợi giây cáp đong đưa
Trời mưa gió núi
Nước nguồn tuôn lởm chởm đá tai mèo
Bản nhỏ dân tộc Vân kiều
Sườn núi cheo leo
Trẻ nhỏ đến trường
Người lớn lên nương
Mỗi ngày hai lượt đi về
Đã hai chục năm vượt qua đoạn đường khổ ải
Niềm mơ ước đơn sơ
Cây cầu xi măng qua suối
Khó trăm bề lớp lớp rào ngăn
Đơn gởi nhiều nơi
Cấp trên chẳng chút đoái hoài
Coi như chuyện nhỏ thường ngày dưới huyện
Một buổi sớm mai
Có người đàn ông tóc pha màu muối
Nói giọng Sài Gòn
Tìm đến nhà trưỡng bản
Họ dắt nhau ra bờ suối
Chỉ chiếc cầu giây cáp cheo leo
Tiền tôi không có bao nhiêu
Chỉ được ba mươi triệu đồng
Nếu dân bản đồng ý góp công
Thì tôi sẽ mua xi măng thép cát
Chúng ta cùng hợp tác
Chiếc cầu bê tông chắc chắn sẽ hoàn thành
Đem lại sự an toàn
Cho hai mươi sáu hộ dân trong bản
Trưỡng bản chi xiết vui mừng
Dắt người đàn ông Sài Gòn lên xã
Và sau là phòng kinh tế huyện hạ tầng
Các nơi đều bằng lòng
Người đàn ông trở lại Sài Gòn
Trưỡng bản họp dân lập đội thi công
Đúng hẹn một tuần sau
Người đàn ông trở lại cùng hai người bạn kỹ sư
Kể cả hai xe chở đầy vật liệu
Họ bắt đầu đắp móng xây cầu ngay chiều hôm đó
Ba người cùng trộn hồ
Khiêng sắt xi măng
Phụ cùng dân bản
Mồ hôi chảy cơn gió Lào nóng bỏng
Họ vẫn tươi cười
Cả tuần lễ thi công
Trưỡng bản nhiều lần hỏi tên
Người đàn ông mĩm cười khiêm tốn
Cứ gọi tên tôi là Tèo
Không mỹ miều thêm bớt
Rồi chẳng nói gì thêm
Một cái tên như không như thật
Trong hàng triệu người dân Sài Gòn có tánh có danh
Một tuần sau cây cầu hoàn thành
Họ uống với dân bản vài ly rượu
Rồi từ giã ra về
Từ đấy chưa lần nào trở lại
Giúp một lần
Lợi ích đến trăm năm
Người bản Vân Kiều nhớ mãi
Đặt tên cây cầu giây cáp trước đây
Là cây cầu anh Tèo bê tông cốt sắt
Một cái tên vô danh mà có thật.
Hồ Thanh Nhã
Sắc tộc người Bru – Vân Kiều ở vùng cao Quảng Trị.
Người Bru – Vân Kiều sống ở dọc theo dãy Trường Sơn, phía Tây các tỉnh Quảng Trị, Quảng Bình, Thừa Thiên, Huế. Mỗi làng hay bản là một điểm cư trú quần tụ. Mỗi gia đình có nhà riêng thường là nhà sàn. Người lớn nhất trong làng gọi là “ Già làng “ hay Trưỡng bản có vai trò quan trọng, điều hành các công việc hành chánh trong làng. Sự giàu nghèo của mỗi hộ dân được xác định bằng chiêng, cồng, ché, nồi đồng và trâu.
Dân số sắc tộc Bru – Vân Kiều là 74,506 người, theo số liệu tổng điều tra dân số năm 2009. Đây là sắc tộc có nguồn gốc lâu đời nhất ở vùng Trường Sơn. Hoạt động sản xuất của sắc dân nầy là nghề nông, canh tác rẩy, trồng lúa rẩy là chính. Nông cụ đơn giản là rìu, dao quắm. cái nạo cỏ có lưởi cong. Họ phát rừng, đốt rồi chọc lổ gieo hạt giống, làm cỏ, tuốt lúa bằng tay. Họ xen canh trên từng đám rẫy kéo dài hàng năm từ tháng 3 đến tháng 10. Ngoài ra họ còn trồng thêm hoa màu phụ như bầu, cà, chuối, khoai, mía. .Rừng và sông suối cung cấp nhiều thức ăn và nhiều nguồn lợi khác. Họ cũng chăn nuôi trâu bò, lợn, gà …
Ngoài ra nhiều hộ cũng làm thêm các nghề thủ công như đan lát, tre, mây . khi rổi rảnh, ngoài thời vụ.
Người Vân Kiều thích ăn các món nướng. canh thì thường nấu lẫn rau rừng với gạo, cá hoặc ếch nhái. .Họ ăn cơm tẻ hàng ngày. khi có lễ hội thì ăn cơm lam ( nếp nướng trong ống tre tươi ). Họ có thói quen ăn bốc, ít khi dùng đủa, uống nước lả, rượu cần. Nam nữ đều hút thuốc lá, tẩu bằng đất nung hoặc bằng cây le. Về trang phục thì nam đóng khố, nữ mặc váy. Còn áo thì không có tay, mặc chui đầu. Phụ nữ thường đeo các đồ trang sức như vòng ở cổ tay, khuyên tai.
Người Bru – Vân Kiều có nhiều lễ cúng khác nhau trong quá trình canh tác. Đặc biệt lễ cúng trước dịp tỉa lúa trên rẫy diễn ra như một ngày hội của dân trong bản. Lễ cúng có đâm trâu thường có trong dịp nầy. Họ ở nhà sàn phù hợp với gia đình thường gồm cha mẹ và các con chưa lập gia đình, Nhà của họ là nhà sàn có 2 mái thường lợp bằng lá mây hoặc lá cọ. /.