Hôm nay,  

Số Phận Chữ Nghĩa Trong Những Chế Độ Chuyên Chế (IV)

8/18/201710:42:00(View: 9054)
SỐ PHẬN CHỮ NGHĨA TRONG NHỮNG CHẾ ĐỘ CHUYÊN CHẾ  (IV)
TIẾP THEO

 

(Sách tham khảo:

 

1/ Jacques Gernet : Le Monde Chinois—A History of Chinese Civilization—sách đã dẫn

2/ Nguyễn Hiến Lê : Sử Trung Quốc---sách đã dẫn

3/ Bách  Khoa Toàn Thư Mở : Vụ Án Minh Sử---The Ming History Case)

 

II/ Nhà Mãn Thanh (1644-1911) Với Hai Cuộc Khủng Bố Văn Học        

 

            Trí thức tộc Hán bị tộc du mục Mãn Thanh tàn sát và làm nhục trong ba thời kỳ đô hộ Trung Hoa :

 

            -Vụ án Minh Sử ( 1662-1663)

            -Vụ án Chính biến Mậu Tuất 1898

            -Khoảng giữa hai vụ án , dài 235 năm là thời kỳ trí thức Hán Tộc theo gương Hàn Tín thời Hán Sở tranh hùng ( 209BC-202BC).

 

            A/ Chính Sách Khủng Bố Chung Đối Với Hán Tộc

 

            Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương nhờ giai cấp nông dân mà đánh đuổi nhà Nguyên và thống nhất đất nước. Nhưng suốt triều đại nhà Minh (1398-1644) giai cấp cầm quyền thống trị đã phản bội giai cấp nông dân, khiến cho giai cấp này lại nổi lên theo lãnh tụ  Lý Tự Thành tràn lên kinh đô chiếm  ngai vàng của Sùng Trinh hoàng đế.

 

            “Lý Tự Thành cũng chỉ là một nông dân vô học, một tướng cướp tàn bạo, nhưng can đảm, có tài cầm quân, thông minh, có óc làm chính trị” *( STQ—sđd—Trang 443).

 

            Không như Lưu Bang, Chu Nguyên Chương, tuy vô học nhưng biết dùng mưu sĩ Trương Lương , Lưu Bá Ôn mà thành đại nghiệp, Lý Tự Thành không có mưu sĩ giỏi nên bỏ Bắc Kinh chạy về Thiểm Tây, bỏ ngỏ kinh đô cho quân Mãn Thanh vào chiếm như vào chỗ không người. Có thể nói chế độ hoạn quan mật vụ của nhà Minh coi dân như kẻ thù đã làm mất nước Trung Hoa vào tay ngoại tộc.

 

            Đó là vào tháng 4 năm 1644, vua Thuận Trị nhà Mãn Thanh mới 7 tuổi lên ngôi có Nhiếp Chính Vương Đa Nhĩ Cổn phò tá, mở đầu cho cưộc đô hộ dài 267 năm.

 

            Nhưng đó không phải lần đầu tiên mà nhà Mãn Thanh chiếm được Trung Hoa. Họ đã chiếm một nửa nước Trung Hoa từ cuối đời Băc Tống  ( 960-1127).

 

            Họ vốn là bộ tộc du mục Nữ Chân ( Jurchen, theo Jacques Gernet—sđd—trang 465) sinh sống ở phía đông bắc tỉnh Mãn Châu, phía đông nam biên giới nước Nga.   Vào cuối đời Bắc Tống, họ đã trở thành một bộ tộc hùng mạnh với quân đội thiện chiến khống chế các thế lực đương thời : triều đại nhà Tống, bộ tộc Khiết Đan (hay Liêu ), Mông Cổ, Tây Hạ. Vào năm 1115 họ tự lập nên Đế Quốc Kim ( Chin Empire 1115-1234---J. Gernet –trang 465) .

 

            Năm 1127 quân Kim diệt Bắc Tống . “Quân Kim bắt vua Khâm Tôn, Thượng hoàng Huy Tôn, thái tử, các hậu phi, hoàng tộc tất cả 3000 người, lại cướp vàng, lụa, con gái trong thành đem về bắc. Bọn họ vừa buồn khổ  vừa không chịu được khí hậu miền bắc, lần lần chết hết. Chưa bao giờ dân tộc Trung Hoa bị nhục như vậy” (STQ—SĐD---trang 328). Nhà Nam Tống phải dời kinh đô xuống Lâm An , Hằng châu Chiết Giang

 

            Tuy nhiên người Kim vốn chỉ quen du mục, không quen định cư định canh. Họ chỉ đi cướp của cải thóc gạo của dân , rồi cướp lẫn nhau . Vì vậy dù chiếm được nửa nước Trung Hoa, họ cũng không giữ được lòng dân. “Trước sau,chúng chỉ là một bọn xâm lăng, một bọn cướp”( STQ—trang 329).

 

            Khi Thành Cát Tư Hãn lập ra nhà Nguyên thì đế quốc Kim bị tiêu diệt năm 1234, trở về lại đông bắc Mãn châu dưới sự đô hộ của nhà Nguyên. Nhà Nguyên chiếm trọn Trung Hoa và đặt sự đô hộ từ 1277 cho tới khi bị Chu Nguyên Chương đuổi về lại đồng cỏ phía bắc năm 1368.

 

            Bốn trăm năm sau , năm 1616, bộ tộc Nữ Chân quật khởi trở lại với lãnh tụ Nô Nhĩ Cáp Xích  ( Nurhaci ) lập nên triều đại Hậu Kim  (Later Chin—J. Gernet—sđd—trang 466) lại mang quân tấn công Trung Hoa với đội quân Bát Kỳ rất hùng mạnh. Năm 1635 con của ông ta là Hoàng Thái Cực đổi tên bộ tộc Nữ Chân thành Mãn Châu, đổi quốc hiệu là Đại Thanh (Ta-Ching—great Ching). Năm 1643 Thái Cực chết, con là Thuận Trị mới 7 tuổi lên nối ngôi có Đa Nhĩ Cổn là chú làm Nhiếp Chính Vương, tấn công chiếm Bắc Kinh năm 1644 lập nên nhà Mãn Thanh.

 

            Người Mãn Thanh có 400 năm để chuẩn bị đô hộ Trung Hoa lâu dài. Lý do : họ đã dùng người Hán làm cố vấn về tư tưởng, văn hóa, chính trị, quân sự, tổ chức xã hội. Người Trung Hoa sau này gọi những người Hán đó là Hán gian. Thực ra họ là những người bị giai cấp thống trị mới của nhà Minh đàn áp quá mà phải bỏ chạy thật xa, mai danh ẩn tích để sống còn, giữ được giòng họ nối dõi tông đường. Có thể họ chỉ muốn mượn tay ngoại tộc để trả thù cho cha ông, như con cháu những công thần bị Chu Nguyên Chương giết, con cháu của nho sĩ Phương Hiếu Nhụ  vốn bị Yên Vương Lệ phanh thây, hay con cháu những người trong đảng Đông Lâm vốn bị hoạn quan Ngụy Trung Hiền giết….và bao nhiêu những nông dân bị quan quân nhà Minh chiếm đoạt của cải ruộng vườn ( Xin xem lại phần III).

 

            Bốn trăm năm trước,  quân Kim không tận diệt nhà Tống mà duy trì nhà Nam Tống (1127-1276) để bắt triều cống rất nặng nề. Lần này quân Mãn Thanh tận diệt nhà Minh với chính sách khủng bố tàn bạo.

 

            1/ Vụ Tàn Sát 10 Ngày Dương Châu

 

            Khi Bắc Kinh thất thủ, quần thần nhà Minh chạy trốn xuống Nam Kinh lập vua mới là Phúc Vương , tổ chức lại triều chính, quân đội mong cố thủ phương nam. Thành Dương Châu ở Giang Bắc là tiền đồn bảo vệ cho Nam Kinh do Binh bộ Thượng thư Sử Khả Pháp trấn đóng. Quân Mãn Thanh tiến xuống vây thành vào tháng 5 âm lịch 1645 trong suốt 25 ngày mới phá được. Sử Khả Pháp chết. Quân Mãn Thanh tàn sát dân Dương Châu suốt 10 ngày, giết trên 800,000 người ( STQ—sđd—trang 447---BKTTM—INTERNET).

 

            Sử Khả Pháp là một bậc quân tử, một tướng giỏi, nhưng dưới quyền của một bọn lãnh đạo ngu hèn nên phải ngậm hờn nơi chín suối.

 

            Tháng 6-1645 quân Mãn Thanh chiếm Nam Kinh, Phúc Vương chết. Nhà Nam Minh còn kéo dài tới 1662 mới bị diệt hẳn.

            Thảm kịch Dương Châu  tái diễn ở Nam Kinh 300 năm sau, khi quân phiệt Nhật   chiếm Nam Kinh vào ngày 13 tháng 12 năm 1937 kéo dài sáu tuần lễ với khoảng 300,000 người bị giết, hãm hiếp (Wikipedia : Nanking Massacre).

 

            Người Hán luôn tự cao tự đại tự xưng là văn minh đứng giữa trời đất, khinh bỉ mọi dân tộc khác là man di mọi rợ . Phải chăng họ phải chịu quả báo nghiệp chung vì sự khinh mạn đó bởi “Rợ Kim, Giặc Lùn )?

            

            2/ Chính Sách Ruộng Đất Của Kẻ Cườp

 

            Sử gia J. Gernet viết : “The Manchus settled in China like a race of lords destined to reign over a population of slaves, just as the Mongols had done”(A History---sđd…trang 467)….

“From the beginning of the conquest, the Manchus expropriated the peasants and constituted estates from which Chinese were excluded. These Manchus enclaves (chu’an), created between 1645 and 1647, were numerous all over North China---especially in the neighborhood of Pekin---and eastern Mongolia.” (A History---sđd—trang 468).

 

            Chúng tôi xin tạm dịch : “Người Mãn Châu định cư ở Trung Hoa với tư cách là những ông chủ có thiên  mệnh cai trị một bọn nô lệ, không khác gì người Mông Cổ trước kia”….”Ngay từ buổi đầu của cuộc chinh phục, người Mãn Châu đã truất quyền sở hữu đất đai của nông dân để lập nên những điền trang . Những điền trang Mãn Châu kiểu như vậy, tạo lập từ 1645 đến 1647, thì có rất nhiều khắp miền Hoa Bắc---nhất là chung quanh Bắc Kinh---và ở cả miền đông Mông Cổ”.

 

              “The Manchus made the labour force which cultivated their estates (prisoners of war and peasants deprived of their property who, to retain a strip of land, agreed to work in the enclaves) into slaves. Liable to be bought and sold like animals, subject to numerous corvees, very harsly treated and condemmed to stay where they were, these labourers sought any means to escape, in spite of the whipping or death penalty which they incurred and caused their relatives and neighbors to incur” (sđd---trang 468)

 

            Chúng tôi xin tạm dịch : “Người Mãn Châu coi lực lượng lao động làm việc trong những điền trang này là nô lệ ( những tù nhân chiến tranh và  những nông dân đã bị cướp mất tài sản, những người mà muốn giữ lại một dải đất thì phải đồng ý làm việc trong những khu biệt lập). Có thể bị mua bán như loài vật, bị cưỡng bách lao động khổ sai, bị đối xử tàn tệ và không được phép rời khỏi nơi qui định, những người lao động này tìm mọi cách bỏ trốn  dù cho  bị đánh bằng roi vọt hay bị án tử hình mà chính họ gánh chịu hay làm liên lụy đến họ hàng , lối xóm”.

 

             Những thảm cảnh của kẻ chiến bại như sử gia J. Gernet mô tả vào thế kỷ 17 vẫn tái diễn trong thế kỷ 20,21 mặc dù những kẻ xâm lăng trong kỷ nguyên “cao điểm văn minh” dùng chữ nghĩa hào nhoáng hay những xảo thuật để che đậy. Sử gia Gernet dùng hai danh từ “ông chủ “, “nô lệ” đủ  để vẽ bức tranh bi thảm về kẻ chiến thắng và kẻ chiến bại.

 

             Biện chứng chủ nô trong lịch sử không thể nào vượt qua được ( to be overcome)  bằng những cuộc chiến tranh chỉ nhằm thay ông chủ này bằng ông chủ khác, thay giai cấp chuyên chế thống trị này bằng giai cấp chuyên chế thống trị khác, còn dân tộc, nhân dân đích thực vẫn làm kiếp nô lệ.

 

            Chính sách khủng bố nhân dân của nhà Mãn Thanh chỉ là thay gông cùm của những vua triều Minh bằng những vua giòng Nữ Chân . Nhờ những cố vấn người Hán, người Mãn thấy rõ vai trò trọng yếu của tư tường , của văn học đối với quần chúng, nên cuộc khủng bố  giới trí thức Hán tộc đã diễn ra khốc liệt trong vụ án Minh Sử.

 

            B/ Khủng Bố Trí Thức : Vụ Án Minh Sử 1662-1663

 

            Ông Chu Quốc Trinh (1557-1632) đỗ Tiến sĩ năm 1589, giữ chức Thượng thư bộ Lễ kiêm Nội các đại học sĩ, thăng lên đến chức Tướng Quốc. Nhưng ông không làm việc được với thái giám Ngụy Trung Hiền nên cáo quan về hưu ở làng Nam Tầm tỉnh Chiết Giang. Ông đã viết xong ba bộ sách về lịch sử triều Minh ; bộ thứ bốn chưa xong thì qua đời vào năm 1632 thời vua Minh Tư tôn ( Sùng Trinh hoàng đế).  Bộ này có tên “Minh Lịch Triều Chư Thần Truyện’”.

 

            Làm quan thanh liêm , lại về hưu nên khi ông chết gia đình lâm cảnh sa sút. Con ông phải đem bản thảo giở dang đi cầm cố nơi nhà phú hộ Trang Doãn Nghĩa để có một chút tiền chi dùng. Con trai phú gia là Trang Đình Long vốn ham đọc sách nhưng sớm bị khiếm thị, phải nhờ tới 18 vị học giả đọc cho nghe. Thấy hay quá bèn mời các vị này cùng nhau tăng bổ, tu chỉnh, viết cho xong. Nhưng sách chưa in thì Đình Long chết năm 1660 khi mà nhà Mãn Thanh đã cai trị được 16  năm rồi.

            Trang Doãn Nghĩa bỏ tiền ra in với nhan đề “Minh Triều Lược Kỷ”, đem bản thảo lên Bộ Lễ kiểm duyệt và được phép phổ biến.

 

            Hồi ấy có một tri huyện bị bãi chức vì tội tham nhũng, tên Ngô Chi Vinh không có tiền

về quê. Hắn đến xin tiền hai phú gia Chu Hựu Minh và Trang Doãn Nghĩa. Chu Hựu Minh khinh bỉ không cho, bèn đem lòng oán hận. Còn Doãn Nghĩa cũng chỉ cho chút ít, hắn cũng oán hận. 

Tình cờ hắn đọc được cuốn    “Minh Triều Lược Kỷ” tác giả Chu Quốc Trinh do Trang Đình Long tu chỉnh và Trang Doãn Nghĩa xuất bản. Hắn đọc và phát hiện một số điều mà hắn cho là có tư tưởng phản nghịch với đương triều :

 

            -Không viết tước hiệu Nhiếp Chính Vương của Đa Nhĩ Cổn ( em vua Hoàng thái Cực, chú vua Thuận Trị). Đa Nhĩ Cổn vốn được xem là khai quốc công thần nhà Thanh.

 

            -Vẫn dùng niên hiệu của triều Minh để viết lịch sử sau 1644.

 

            -Kết án một số cựu thần nhà Minh đầu hàng nhà Thanh

 

            -Giọng văn ai oán đầy hoài niệm khi viết về chế độ cũ

 

            Ngô Chi Vinh  đắc ý tìm ra con đường tiến thân trở lại quan trường. Hắn bèn đem trình lên quan Tuần Phủ . May có người mách Trang Doãn Nghĩa. Ông kinh hoảng trước đại họa sắp đến, nên dốc hết tiền bạc lo lót mọi nơi từ dưới lên trên để thu hồi những bản đã phổ biến và thay bằng bản in mới sửa hết những chỗ sai.

 

            Ngô Chi Vinh đợi lâu không thấy kết quả, ra hiệu sách thấy bản in mới . Hắn không bỏ cuộc, mang bản in cũ lên tận kinh đô tố cáo. Lúc bấy giờ trong triều đình , Nhiếp Chính Vương đã chết. Tướng quân trong đội quân Bát Kỳ,  Ngao Bái,  đang nắm quyền chính , phò tá Vua Khang Hy mới 8 tuổi lên ngôi năm 1662. Ngao Bái muốn củng cố quyền lực đối với những địch thủ khác , đọc bản cáo trạng của Ngô Chi Vinh , bèn phái quân xuống Chiết Giang điều tra bắt phản nghịch.

 

            Cuộc điều tra nhanh chóng đã bắt tất cả những người có liên quan đến cuốn sách:

            -Trang Doãn Nghĩa, chủ biên

            -18 vị học giả có tên đã góp phần hiệu đính

            -Vị quan viết lời tựa

            -Tất cả viên chức đã ăn hối lộ của Trang Doãn Nghĩa

            -Những hiệu buôn sách

            -Những người đọc sách

            -Những thợ khắc chữ

 

            Ngao Bái ra án tử hình 72 người, hoặc chết chém, hoặc phanh thây, hoặc tùng xẻo.  Trang Doãn Nghĩa tự tử trong tù, Trang Đình Long chết rồi cũng bị quật mồ lấy xác lên hành hình. Ngoài ra có cả trăm người bị đi đầy nơi biên ải.

            Ngô Chi Vinh không tha Chu Hưu Minh, mặc dù ông không có liên quan đến cuốn sách.

Số là trong bản in có dòng chữ :   “Chu thị nguyên cảo do nhuận sắc mà thành”. “Chu thị” , ở đây là nói tác giả Chu Quốc Trinh. Nhưng hắn thù Chu Hựu Minh đã khinh bỉ hắn nên cáo rằng chữ Chu Hựu Minh có ý nghĩa họ Chu còn nhớ nhà Minh. Rốt cuộc ông này cùng năm con đều bị chết chém..

 

            Phần thưởng mà nhà Mãn Thanh dành cho hắn là được phục chức, rồi thăng chức và hưởng nửa gia tài  của hai phú gia . Hai năm sau, 1665, hắn tự nhiên mắc bệnh lở lói khắp người mà chết.

           Quả báo nhãn tiền.

 

            Ngô Chi Vinh là một thứ đao- bút- lại vô cùng nguy hiểm, chỉ dùng một ít chữ nghĩa gièm pha, vu cáo mà giết oan bao mạng người, làm tan nát bao gia đình .

 

            Cuộc khủng bố giới trí thức của triều đình Mãn Thanh tưởng là chỉ xẩy ra vì lãnh đạo là một bộ tộc du mục thiếu văn hóa. Nhưng ba trăm năm sau , 1956, thảm kịch đó tái diễn , với vụ án Nhân Văn Giai Phẩm mà kịch bản khủng bố chẳng khác gì vụ án Minh Sử.

 

                        1/  Ra lệnh cho mậu dịch không bán giấy in báo cho nhóm đối lập

                        2/ Khủng bố những ngưởi phát hành

                        3 Khủng bố những ngưởi đọc

                        4/ Vận động thợ in không in báo đối lập----dùng hệ thống công đoàn uy hiếp công nhân nhà máy in đình công không in báo phản động

 

                        5/ Vu cáo nhóm trí thức Nhân Văn Giai Phẩm cấu kết với địch

 

                        ( TRĂM HOA ĐUA NỞ TRÊN ĐẤT BẮC—sđd---Chương 2—Mục : Chiến thuật Khủng Bố ngầm)

 

                        Những đao-bút-lại ttrong vụ án này đều từng là những văn nghệ sĩ, trí thức có tiếng tăm trong văn học sử Việt Nam. Họ còn nguy hiểm hơn Ngô Chi Vinh nhiều.

 

            C/ Vụ Án Mậu Tuất 1898: Lục Quân Tử

 

            Nhà Mãn Thanh chỉ có bốn vua giỏi là Khang Hy ( 1662-1722), Ung Chính ( 1723-1735),

Càn Long ( 1736-1796), Gia Khánh (1796-1820). Còn năm vua tiếp theo đều ngu, hèn : (Đạo Quang ( 1821-1850), Hàm Phong ( 1851-1861), Đồng Trị ( 1862-1874), Quang Tự ( 1875- 1908), Phổ Nghi ( 1908-1912).

 

            Sau khi Khang Hy giết Ngao Bái năm 1669, chấm dứt quyền lực của phe quân nhân thì trí thức Hán tộc được trọng dụng  cho mãi gần tới cuối đời Thanh 1900. Trong hơn hai trăm năm,  trí thức Hán tộc đóng vai Hàn Tín chịu nhục lòn cúi ngoại tộc. Những đại nho sĩ như Tăng Quốc Phiên ( 1811-1872), Tả Tông Đường ( 1812-1885), Lý Hồng Chương ( 1823-1901) đều làm quan lớn, hợp tác với triều Mãn Thanh chống lại những phong trào khởi nghĩa của nông dân như Niệm quân, Thái Bình thiên quốc ( 1851-1864) . Họ vẫn muốn giữ triều Mãn Thanh tồn tại mặc dù vua và triều đình đã thối nát yếu hèn trước những cuộc xâm lăng của các nước phương Tây từ thời Đạo Quang trở đi.

 

            Ngay cả những nho sĩ Hán tộc vừa giỏi Hán học vừa giỏi Tây học như Khang Hữu Vi

( 1858-1927), Lương Khải  Siêu ( 1873-1929 ), Đàm Tự Đồng ( 1865-1898 )  ….cũng vẫn cố cứu chữa cho con bệnh đã hấp hối. Chính vì vậy họ mới lãnh hậu quả thê thảm.

 

            Sau khi vua Hàm Phong chết ( 1861) , cả triều đình Mãn Thanh quì gồi trước một người đàn bà ít học nhưng gian ác dâm dật là Từ Hy thái hậu đứng đầu một phe cực kỳ bảo thủ gọi là Hậu đảng. Bọn Hậu đảng vẫn tự cho mình là giỏi nhất thiên hạ, không chịu cải cách để theo kịp những tiến bộ của phương Tây, không biết rằng dân Nhật Bản mà họ vẫn khinh miệt là bọn Đông Di đang trở thành một cường quốc kỹ nghệ sánh ngang cùng những nước Anh, Pháp, Mỹ,Đức.

            Từ 1873 cho đến 1893, Nhật đã chiếm những thuộc quốc của Trung Hoa như đảo Lưu Cầu ( Okinawa), Triêu Tiên, Đài Loan. Năm 1894 ( thời vua Quang Tự )  hạm đội Nhật đã đánh tan hạm đội Bắc Dương của nhà Thanh ở gần Uy Hải Vệ và làm chủ biển Hoàng Hải. Biến cố này làm rung động toàn thế giới. Nhà Thanh phải ký những hiệp ước nhục nhã.

 

            Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu , Đàm Tự Đồng đứng đầu một nhóm trí thức dâng kế sách Duy Tân lên vua Quang Tự mong làm cho nước Trung Hoa tiến bộ nhanh như Nhật Bản. Nhưng họ gặp sức phản động của Hậu Đảng nên từ năm 1895 cho mãi đến tháng 6 -1898 kế sách Duy Tân mới được Quang Tự cho thi hành theo tiêu chuẩn “Toàn Biến, Tốc Biến” ( đổi nhanh, đổi mọi mặt).

           Từ ngày 11 tháng 6 năm 1898 cho tới tháng 9 -1898 , “Trong khoảng chưa đầy ba tháng mà một trăm mấy chục đạo chiếu được ban ra làm cho cả trong triều lẫn ngoài tỉnh mọi người xôn xao” ( STQ—sđd—trang 539 ).

 

            Từ Hy cùng Hậu đảng ra tay ngăn cản, thu hồi những sắc lệnh đổi mới. Đàm Tự Đồng khuyên Quang Tự triệu tướng Viên Thế Khải ( 1859-1916 ) đem 7000 quân tử Bắc Dương về Bắc Kinh nhằm diệt Hậu đảng.

 

            Viên Thế Khải là một tướng quân người Hán có mưu lược và tham vọng chính trị. Nhìn tình hình hai phe : Hậu đảng của Từ Hy, và Đế đảng của Quang Tự, Khải thấy rõ phe Tư Hy còn rất mạnh vì được đội quân Bát Kỳ gốc Mãn Thanh hậu thuẫn. Hắn bèn phản bội phe Duy Tân, tố cáo âm mưu của Quang Tự muốn trừ khử Tư Hy. Phe nhà vua chỉ còn toàn một nhóm nho sĩ có chữ nghĩa nhưng không có vũ khí và thủ đoạn chính trị.

 

            Từ Hy bắt giam Quang Tự và trở lại nắm toàn quyền lãnh đạo triều đình, phong cho Viên Thế Khải làm Thống Soái tân quân Bắc Dương. Cuộc “Duy Tân Một Trăm Ngày” coi như chấm dứt . Cuộc lùng bắt khủng bố phong trào bắt đầu. Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu trốn khỏi Trung Hoa. Đàm Tự Đồng không trốn , bị bắt,  tử hình cùng năm vị khác, trong đó có em của Khang Hữu Vi là Khang Quảng Nhân. Đàm Tự Đồng chết năm 33 tuổi.

 

            Biến cố này được sử sách gọi là “Chính Biến Mậu Tuất 1898”. Sáu vị nho sĩ bị tử hình được dân tôn xưng là “Lục Quân Tử” , sánh ngang với sáu vị bị thái giám Ngụy Trung Hiền giết vào thời nhà Minh gọi là “Lục Tài Tử” trong vụ án Đảng Đông Lâm ( xin xem phần III ).

 

            Nếu sáu nhà trí thức chết trong vụ án đảng Đông Lâm ( 1627 ) đã báo trước sự diệt vong của triều đại nhà Minh  ( 1644 ) , thì Lục Quân Tử trong vụ án Duy Tân Mậu Tuất cũng báo trước sự diệt vong của nhà Mãn Thanh ( 1911 ).

 

             Tư tưởng của ba nho sĩ Khang, Lương, Đàm lưỡng lự giữa quân chủ chuyên chế và quân chủ lập hiến, giữa quân chủ lập hiến và thể chế dân chủ, phản ánh thái độ mất tự tin của trí thức Hán tộc đối với dân tộc mình vì chưa dám dứt khoát hẳn với ngoại tộc Mãn Thanh. Ngay cả khi người Mãn đã giết “Lục quân Tử”, đã ký hiệp ước Tân Sửu 1901 mà sử sách gọi là ô nhục không những đối với triều đình Mãn Thanh mà cho cả dân tộc Trung Hoa, mà các cụ vẫn còn muốn chủ trương bảo hoàng nghĩa là vẫn thờ vua ngoại tộc.

 

              Sự mất tự tin đó tồn tại mãi trong giới trí thức Trung Hoa nói riêng và trong dân tộc Trung Hoa nói chung, kéo dài cho mãi tới những năm của thập niên 1950 với phong trào “Bách Hoa Tề Phóng”, của thập niên 1960 với phong trào “Cách Mạng Văn Hóa”.(CÒN TIẾP)

 

Đào Ngọc Phong
08/ 20/2017

 

                                                                                                    

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Cuối năm là lúc con người nhìn lại về giá trị cuộc sống. Một bài viết trên trang mạng The Conversation nêu vấn đề về những vực thẳm chính trị, các cuộc chiến tranh, áp bức… và con người vì thế cảm thấy vô vọng và bất lực khi chứng kiến những thế lực đen tối diễn ra khắp nơi trên thế giới. Liệu chúng ta có thể làm được điều gì đem lại thay đổi trước những bi hoại này hay không?
Danh hiệu “Nhân Vật Của Năm” do TIME bắt đầu từ năm 1927 – theo truyền thống được trao cho những người có ảnh hưởng đáng kể trong các sự kiện toàn cầu, từ chính trị đến văn hóa, môi trường, nghệ thuật. Những người được chọn đóng vai trò như một “thước đo phong vũ” về sức lan tỏa trong xã hội đương đại. Ảnh hưởng đó, theo tiêu chuẩn do chính TIME đề ra, có thể là “for better or for worse – làm cho thế giới tốt đẹp hơn hoặc tệ hại hơn.”
Tiễn 2024, thế giới sẽ chào đón một năm mới 2025 mang theo cả bóng tối lẫn ánh sáng. Các cuộc xung đột, sự phân cực chính trị và những rủi ro khôn lường là lời nhắc nhở về sự bất ổn của thời đại. Nhưng đồng thời, khả năng phục hồi kinh tế, sự phát triển công nghệ, tinh thần hợp tác quốc tế, hơi thở và sự sống còn bất khuất của từng người mẹ, từng đứa trẻ vực dậy và vươn lên từ những đống gạch vụn đổ nát ở Ukraine, ở Gaza, ở Syria… cũng là cảm hứng và hy vọng cho tương lai nhân loại. Nhà văn Albert Camus đã viết: “Giữa mùa đông lạnh giá nhất, tôi tìm thấy, trong mình, một mùa hè bất khả chiến bại.”* Thế giới năm 2025, với tất cả những hỗn loạn, vẫn mang đến cơ hội để con người vượt qua và xây dựng một cuộc sống tốt đẹp, tử tế hơn. Đó cũng là lời chúc chân thành cuối năm của toàn ban biên tập Việt Báo gửi đến quý độc giả: một năm 2025 tràn trề cơ hội và hy vọng.
Trong ba năm học gần đây, PEN America đã ghi nhận hàng loạt trường hợp cấm sách xảy ra trên toàn nước Mỹ, đặc biệt trong các trường công lập. Những nỗ lực xóa bỏ một số câu chuyện và bản sắc khỏi thư viện trường học không chỉ gia tăng mà còn trở thành dấu hiệu của một sự chuyển đổi lớn hơn, đặt ra câu hỏi nghiêm trọng về tương lai của giáo dục công lập. Việc kiểm duyệt này phản ánh một xu hướng đáng lo ngại: sự tập trung vào việc kiểm soát nội dung văn hóa và giáo dục, thay vì khuyến khích học sinh tiếp cận kiến thức đa chiều.
Syria đang sống trong một bước ngoặt lịch sử sau khi chế độ độc tài sụp đổ nhanh chóng và Bashar al-Assad trốn sang Nga để tị nạn. Các nhóm nổi dậy chiến thắng đang cố gắng duy trì trật tự công cộng và thảo luận về các kịch bản cho tương lai. Lòng dân hân hoan về một khởi đầu mới đầy hứa hẹn pha trộn với những lo âu vì tương lai đất nước còn đầy bất trắc. Trong 54 năm qua, chế độ Assad đã cai trị đất nước như một tài sản riêng của gia đình và bảo vệ cho chế độ trường tồn là khẩu hiệu chung của giới thân cận.
Các số liệu gần đây cho thấy những thách thức mà nhà lãnh đạo Trung Quốc phải đối mặt để phục hồi kinh tế cho năm 2025, khi quan hệ thương mại với thị trường xuất khẩu lớn nhất của Trung Quốc có thể xấu đi cùng lúc mức tiêu thụ trong nước vẫn sụt giảm. Và thật sự thì nền kinh tế Trung Quốc tệ đến mức nào? Việc đặt câu hỏi này ngày càng trở nên hợp lý khi Trung Quốc đang đối mặt với tình trạng sản xuất trì trễ và tiền tệ mất giá kéo dài trong những năm gần đây. Đặc biệt, chính quyền Bắc Kinh dường như không muốn công khai toàn bộ thực trạng.
Chiều ngày Thứ Ba 17/12, tòa án New York kết án Luigi Mangione 11 tội danh, bao gồm tội giết người cấp độ 1, hai tội giết người cấp độ 2 cùng các tội danh khác về vũ khí và làm giả danh tính. Theo bản cáo trạng, một bồi thẩm đoàn ở Manhattan đã truy tố Mangione về tội giết người cấp độ hai là tội khủng bố. Tòa đã kết tội hành động của Luigi Mangione – một hành động nổi loạn khó có thể bào chữa dù đó là tiếng kêu cuối cùng của tuyệt vọng.
Ngay từ thời điểm này, cho dù chưa chính thức bước vào Tòa Bạch Ốc, tổng thống đắc cử Donald Trump đã hứa hẹn một chiến dịch bài trừ di dân lớn nhất lịch sử Mỹ. Những cuộc kiểm soát, bắt bớ, trục xuất di dân dự kiến sẽ diễn ra với qui mô lớn trong vài năm tới. Nhiều sắc dân nhập cư ở Mỹ sẽ phải lo lắng, nhưng cộng đồng chịu ảnh hưởng nặng nề nhất sẽ là cộng đồng di dân gốc Mỹ Latin. Lời hứa này đang làm hài lòng những người Mỹ xem dân nhập cư là kẻ cướp đi việc làm và quyền lợi của mình. Rất đông trong số này thuộc các cộng đồng di dân, trong đó có cộng đồng gốc Việt. Tuy nhiên, có bao nhiêu người thấy được toàn cảnh ảnh hưởng của những chính sách bài trừ di dân đến nền kinh tế và xã hội Hoa Kỳ?
Trong tài liệu của Thư Viện Quốc Hội ghi rằng, nguồn gốc của quyền ân xá trong Hiến Pháp Hoa Kỳ đến từ lịch sử Anh quốc. Quyền ân xá xuất hiện lần đầu tiên dưới thời trị vì của Vua Ine xứ Wessex vào thế kỷ thứ bảy. Mặc dù tình trạng lạm dụng quyền ân xá ngày càng tăng theo thời gian, dẫn đến những hạn chế sau đó, nhưng quyền ân xá vẫn tồn tại trong suốt thời kỳ thuộc địa của Mỹ.
Tôi cộng tác với tuần báo Trẻ (tờ báo có nhiều ấn bản nhất tại Hoa Kỳ) gần hai chục năm qua. Sự gắn bó lâu dài này không chỉ vì tấm lòng yêu nghề (và thái độ thân thiện cởi mở) của ban biên tập mà còn vì chút tình riêng. Mỗi tuần Trẻ đều dành hẳn một trang báo, để trân trọng giới thiệu đến độc giả hai ba vị thương phế binh (Việt Nam Cộng Hòa) đang sống trong cảnh rất ngặt nghèo ở quê nhà. Nhìn hình ảnh đồng đội của mình đang ngồi trên xe lăn, hay nằm thoi thóp trong một gian nhà tồi tàn nào đó – lắm lúc – tôi không khỏi băn khoăn tự hỏi: “Liệu có còn ai nhớ đến những kẻ đã từng vì đời mà đi không vậy?
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.