Hôm nay,  

KHÁI HƯNG và TRƯỜNG CAN HÀNH của LÝ BẠCH

24/05/201611:04:00(Xem: 6392)

Lý Bạch (701-762) là đại thi hào bậc nhất thời Thịnh Đường, ra đời cách đây hơn 13 thế kỷ. Ông sống một cuộc đời phóng túng, cao ngạo, hào hiệp, trọng nghĩa khinh tài. Là nhà thơ, ông lại thích múa kiếm làm hiệp sĩ, thích ở ẩn, dù có một thời gian được vua Đường Minh Hoàng qúy mến vời vào cung uống rượu, làm thơ. Ông được người đời mệnh danh là “trích tiên”. Thơ của ông tự nhiên, mạnh mẽ, khoáng đạt, dào dạt, ít dụng công lựa chữ. Đề tài của thơ ông rất đa dạng, phong phú. Ông đề cập đến thú uống rượu và thưởng trăng, tình yêu thiên nhiên, ngày tháng rong chơi trên nhiều nơi của đất nước mênh mông. Tình bạn và cảnh biệt ly cũng được nhiều lần nhắc đến. Có khi ông cảm khái làm “thơ biên tái” mô tả cảnh dãi dầu, bi hùng của chiến sĩ ngoài sa trường. Ngược lại ông cũng không quên ca tụng giai nhân chốn cung đình.     

Lại cũng có khi ông quan tâm đến thân phận người con gái vừa mới về nhà chồng một vài năm thì đã phải nếm mùi chia cách. Bài Trường Can Hành thuộc về đề tài đó. Dù là một lãnh vực ít được ông chú ý, nhưng một khi ông ghé mắt vào, bài Trường Can Hành vẫn một kiệt tác. 

Thơ của ta cũng có bài chịu ảnh hưởng đôi chút của Trường Can Hành. Trong Chinh Phụ Ngâm có hai câu:

               

Chàng ruổi ngựa dặm trường mây phủ

                Thiếp dạo hài lối cũ rêu in

 

Câu thứ hai phải chăng lấy từ ý trong hai câu:

 

                Ngoài cửa thưa chân bước

                Rêu xanh mọc thành hàng

                                       (Khái Hưng dịch Trường Can Hành)

 

Cũng thế, trong Truyện Kiều có những câu:

               

                Sân rêu chẳng tỏ dấu giày

                Cỏ cao hơn thước, liễu gầy vài phân

 

hoặc:

 

                Xập xè én liệng lầu không

                Cỏ lan mặt đất rêu phong dấu giày

 

Và có thể nào Xuân Diệu đã nghĩ đến:

 

                Tháng tám ngoài vườn cỏ

                Nhởn nhơ đôi bướm vàng

                Tự cảm đau lòng thiếp

                Nhìn tàn tạ hồng nhan

                                             (Khái Hưng dịch Trường Can Hành

 

khi trong bài Đơn Sơ có những câu:

 

                Em viết trong thư mấy bữa rày

                Sao mà bươm bướm cứ đua bay

                Em buồn em nhớ, chao em nhớ

                Em gọi thầm anh suốt cả ngày

               

Gần đây, trong một lần trò chuyện với nhà phê bình Đặng Tiến, tôi được biết ông thuộc rất nhiều thơ. Một điều đặc biệt nữa là không những thuộc thơ, ông còn biết bài thơ nào in trong báo nào, tạp chí nào, sách nào. Quả vừa là nhà phê bình, vừa là nhà văn bản học. Riêng tôi chỉ nhớ được một ít thơ và tên tác giả mà thôi. Tôi không để ý đến nhà in, nhà xuất bản.

Khi tôi bảo Khái Hưng có dịch Trường Can Hành ra tiếng Việt, ông ngạc nhiên hỏi tôi bài đó đăng ở sách báo nào, lúc nào. Tôi chịu thua. Theo Đặng Tiến, Khái Hưng có dịch thơ, trong đó bài dịch Sonnet d’Arvers ra tiếng Việt được nhiều người biết đến. “Lòng ta chôn một mối tình/Tình trong giây lát mà thành thiên thâu ....”, ông đọc hai câu đầu tiên của bài thơ ấy. Nhưng đối với bài Trường Can Hành của Lý Bạch, ông chưa biết Khái Hưng có dịch hay không. Ông nói thêm có lần tạp chí Khời Hành của Viên Linh dành nguyên một số báo viết về Khái Hưng, nhưng không thấy bài nào đề cập đến chuyện Khái Hưng dịch Trường Can Hành. Trước khi chia tay, ông bảo nếu tôi nhớ rõ bài dịch ấy, thì nên cho đăng lên báo để rộng đường dư luận.  

Sau câu chuyện nói trên, tôi trở về nhà tìm đọc trên các sách báo mà tôi có, và trên Internet. Có đến 10 tác giả đã dịch Trường Can Hành  ra tiếng Việt; không thấy tên Khái Hưng. Nhưng tôi nhớ rõ đã đọc bài dịch của Khái Hưng trên một cuốn sách hay tạp chí cũ nào đó từ khi tôi còn học trung học, nghĩa là cách đây hơn nửa thế kỷ, và đã thuộc lòng vì đó là bài dịch hay. Nếu so bài ấy với 10 bài vừa kể trong đó có bài của Trần Trọng San, Trúc Khê, theo tôi, bài của Khái Hưng hay nhất.

Bạn đọc có thể nghĩ rằng tôi nói vớ vẩn, vô căn cứ, hoặc nhớ sai. Cho nên tôi thử soát lại một loạt bài thơ Tiền Chiến tôi đã đọc, đã thích, đã nhớ, cùng một lúc. Nào một số thơ của Xuân Diệu, Huy Cận, nào một số thơ của Hàn Mạc Tử, Vũ Hoàng Chương, Thâm Tâm, Đinh Hùng, vân vân, và cả bài dịch Trường Can Hành của Khái Hưng cũng theo lối thơ ngũ ngôn. Tôi nhận ra rằng tôi đã nhớ đầy đù và gần đúng hết. Ai cũng thế, hồi còn trẻ, đầu óc gần như trang giấy trắng, những gì đã được ghi vào ký ức sẽ khó bị xoá nhoà.

Khái Hưng, một tiểu thuyết gia biệt tài, một tấm lòng bao la, man mác, đã xây dựng nên Hồn Bướm Mơ Tiên như một bài thơ xuôi thật dài, thật duyên dáng, êm đềm, thơ mộng, và đã nhập vào hồn Trường Can Hành để chuyển thành một bài thơ tiếng Việt đầy xúc cảm dù có một vài chi tiết không theo sát với nguyên tác chữ Hán.

 

Tôi xin ghi lại dưới đây bài Trường Can Hành nguyên tác chữ Hán của Lý Bạch, bài dịch nghĩa và dịch thành thơ của Trần Trọng San, và cuối cùng là bài dịch của Khái Hưng.  

 

Nguyên tác của Lý Bạch:     

 

                                Thiếp phát sơ phú ngạch

                                Chiết hoa môn tiền kịch

                                Lang kỵ trúc mã lai

                                Nhiễu sàng lộng thanh mai

                                Đồng cư Trường Can lý

                                Lưỡng tiểu vô hiềm sai

                                Thập tứ vi quân phụ

                                Tu nhan vị thường khai

                                Đê đầu hướng ám bích

                                Thiên hoán bất nhất hồi

                                Thập ngũ thủy triển mi

                                Nguyện đồng trần dữ hôi

                                Thường tồn bão trụ tín

                                Khởi thướng Vọng Phu đài

                                Thập lục quân viễn hành

                                Cồ Đường Diễm Dự đôi

                                Ngũ nguyệt bất khả xúc

                                Viên thanh thiên thượng ai

                                Môn tiền cựu hành tích

                                Nhất nhất sinh lục đài

                                Đài thâm bất năng tảo

                                Lạc diệp thu phong tảo

                                Bát nguyệt hồ điệp lai

Song phi tây viên thảo

                                Cảm thử  thương thiếp tâm

                                Toạ sầu hồng nhan lão

                                Tảo vãn há Tam Ba

                                Dự tương thư báo gia

                                Tương nghinh bất đạo viễn

                                Trực chỉ Trường Phong sa.

 

Dịch nghĩa:

 

                Nhớ lại ngày còn nhỏ, tóc thiếp mới rủ xuống trán. Thiếp bẻ hoa chơi trước cổng. Chàng cưỡi con ngựa tre chạy lại, vòng quanh giường nghịch cành mai xanh.

                Chàng và thiếp cùng ở làng Trường Can, vì cùng còn nhỏ tuổi nên việc giao du không có sự nghi ngờ. Khi mười bốn tuổi, thiếp về làm vợ chàng, mặt thẹn thùng chưa từng hé mở.

                Thiếp ngượng ngùng quay đầu vào vách tối. Chàng gọi trăm nghìn lần, thiếp không một lần quay lại. Năm mười lăm tuổi, lông mày mới bắt đầu giải rộng, thiếp nguyện cùng chàng gian khổ có nhau.

                Thiếp thường giữ vững lòng tin như Vĩ sinh ôm cột ngày xưa. Có bao giờ nghĩ rằng phải lên đài Vọng Phu. Khi thiếp mười sáu tuổi, chàng phải đi xa đến mãi Cồ Đường và Diễm Dự đôi.

                Tháng năm , không đến được miền đó. Trên trời, tiếng vượn kêu bi ai. Trước cổng, rêu đã mọc xanh trên những vết chân xưa.

                Rêu mọc dày, không sao quét hết. Năm nay, gió thu thổi, lá vàng rơi sớm hơn mọi năm. Tháng tám, những con bướm lại, bay đôi trên cỏ vườn tây.

                Cảm xúc trước cảnh ấy, lòng thiếp đau thương. Thếp ngồi buồn thấy hồng nhan thêm già. Sớm muộn chàng sẽ xuống miền Tam Ba, xin hãy báo tin về nhà.

                Thiếp không ngại đường sá xa xôi, sẽ thẳng tới Trường Phong sa gặp chàng.

 

Dịch thơ của Trần Trọng San:

 

                                Tóc thiếp vừa buông trán,

                                Hái hoa trước cổng ngoài.

                                Chàng cưỡi ngựa tre đến,

                                Quanh giườmg đùa nhánh mai.

                                Trường Ca cùng một xóm,

                                Hai trẻ đều thơ ngây.

                                Mười bốn về làm vợ,

                                Thiếp còn e lệ hoài.

                                Cúi đầu vào vách tối,

                                Gọi mãi chẳng buồn quay.

                                Mười lăm vừa hết thẹn,

                                Thề cát bụi không dời.

                                Bền vững niềm son sắt,

                                Há lên Vọng phu đài.

                                Chàng đi năm mười sáu,

                                Cồ Đường, Diễm Dự đôi.

                                Tháng năm không đến được,

                                Tiếng vượn kêu vang trời.

                                Dấu chân ngoài cổng trước,

                                Rêu biếc mọc xanh tươi.

                                Rêu đầy không quét hết,

                                Gió thổi lá vàng rơi.

                                Tháng tám đàn bươm bướm,

                                Trên cỏ vườn bay đôi.

                                Cảm xúc đau lòng thiếp,

Má hồng sầu pha phôi.

                                Tam Ba chàng sẽ đến,

                                Xin báo tin về nhà.

Đón chàng thiếp chẳng ngại,

                                Thẳng đến Trường Phong sa.

 

Dịch thơ của Khái Hưng:

 

Thiếp ngắt hoa trước cửa

                                Tóc chấm trán vừa ngang

                                Chàng cưỡi ngựa trúc đến

                                Tung hoa chạy quanh giường

                                Làng Trường Can cùng ở

                                Hai trẻ một lòng thương

                                Mười bốn về làm vợ

                                Thiếp e thẹn bẽ bàng

                                Cúi đầu vào vách tối

                                Gọi mãi chẳng quay sang

Mười lăm mi mới nở

Nguyện ghi tạc đá vàng

Chàng không hề lỗi hẹn

Thiếp rất được yêu thương

Mười sáu chàng ra đi

Trơ vơ lối Cồ Đường

Tháng năm ai dám tới

Tiếng vượn kêu thảm thương    

Ngoài cửa thưa chân bước

Rêu xanh mọc thành hàng

Rêu đầy không thể quét

Lá rụng gió thu mang

Tháng tám ngoài vườn cỏ

Nhởn nhơ đôi bướm vàng

Tự cảm đau lòng thiếp

Nhìn tàn tạ hồng nhan

Sớm chiều đến Ba Quận

Mong ngóng đợi tin chàng

Xa xôi đâu dám ngại

Trường Phong bao dặm đàng.

 

                Nếu quý vị nào tìm được trên báo chí, sách vở cũ bài Trường Can Hành do Khái Hưng dịch, tôi xin được chỉ giáo, và xin vô cùng cảm tạ.

Ngự Thuyết

5/2016

                                                                                                                                          

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Trong tháng Hai vừa qua, cái chết đau thương, lẫm liệt của nhà đối kháng người Nga Alexei Navalny trong tù đã gây sầu thảm, phẫn nộ cho toàn cộng đồng tiến bộ nhân loại. Đối với người Việt Nam tiến bộ, nỗi đau lại càng sâu thêm khi trong ngày cuối cùng của tháng Hai, ngày 29, nhà cầm quyền độc tài Hà Nội bắt đi cùng lúc hai nhà đấu tranh kiên cường...
Ít lâu nay, vấn đề “bảo vệ an ninh quốc gia” được nói nhiều ở Việt Nam, nhưng có phải vì tổ quốc lâm nguy, hay đảng muốn được bảo vệ để tồn tại?
Xuất hiện gần đây trong chiến dịch tranh cử tổng thống, Donald Trump, ứng cử viên đảng Cộng hòa, đã lên tiếng đe dọa là sẽ không bảo vệ cho các đồng minh thuộc khối NATO trong trường hợp bị Nga tấn công. Ý kiến này đã dấy lên một cuộc tranh luận sôi nổi tại châu Âu, vì có liên quan đến việc răn đe Nga và ba kịch bản chính được đề cập đến khi Donald Trump trở lại Nhà Trắng vào năm 2025 là liệu Liên Âu có nên trang bị vũ khí hạt nhân chăng, Pháp có thể tích cực tham gia không và Đức nên có tác động nào.
Tôi không biết chính xác là Văn Trí đã đặt chân đến Đà Lạt tự lúc nào nhưng cứ theo như ca từ trong nhạc phẩm Hoài Thu của ông thì Cao Nguyên Lâm Viên ngày ấy vẫn hoang vu lắm. Ngoài “núi rừng thâm xuyên”, với “lá vàng rơi đầy miên man”, cùng “bầy nai ngơ ngác” (bên “hồ thu xanh biếc”) thì dường như không còn chi khác nữa! Từ Sài Gòn, khi tôi được bố mẹ “bế” lên thành phố vắng vẻ và mù sương này (vào khoảng giữa thập niên 1950) thì Đà Lạt đã bị đô thị hóa ít nhiều. Nơi đây không còn những “bầy nai ngơ ngác” nữa. Voi, cọp, heo rừng, beo, báo, gấu, khỉ, vượn, nhím, mển, gà rừng, công, trĩ, hươu, nai, trăn, rắn, sóc, cáo, chồn… cũng đều đã biệt tăm. Người Thượng cũng ở cách xa, nơi miền sơn cước.
Vi hiến có nghĩa là “vi phạm” hay đi ngược lại những gì Hiến Pháp (HP) quy định. HP không có gì là cao siêu hay quá bí ẩn. Hiến Pháp trong bản chất chỉ là một bộ luật. Sự khác biệt chỉ là: HP là một bộ luật nền tảng hay nôm na là “luật mẹ”. Không những không cá nhân hay hữu thể pháp lý nào trong xã hội, kể cả hành pháp (tức chính phủ) được quyền vi phạm HP, mà không một luật pháp nào của lập pháp (tức quốc hội) được quyền vi phạm HP cả...
Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ tiếp tục đi theo đường mòn Chủ nghĩa đã lu mờ trong thưc tế và thất bại trong hành động tại Đại hội đảng kỳ 14 vào tháng 1 năm 2026. Khẳng định này của ông Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư đảng là bằng chứng cho tính chai lỳ, chậm tiến và lạc hậu, không phải của riêng ông mà toàn đảng...
Thứ Bảy 24/2/2024 đánh dấu hai năm kể từ khi Nga phát động cuộc chiến tranh xâm lược toàn diện nước Ukraine. Cuộc xung đột đang lâm vào tình trạng bế tắc và ngày càng tàn khốc. Nhân dịp này ông Nick Schifrin, một phát thanh viên của kênh truyền hình PBS, đã tổ chức một buổi thảo luận bàn tròn về hiện tình của cuộc chiến, nó có thể đi đến đâu và chính sách của Hoa Kỳ đối với Ukraine sẽ ra sao. Hiện diện trong buổi thảo luận có các ông Michael Kofman, John Mearsheimer và bà Rebeccah Heinrichs...
Đôi lời từ tác giả: “Sẽ có nhiều người không thích bài viết này. Họ sẽ cảm thấy bị công kích và rằng thật bất công. Phản ứng càng mạnh mẽ càng cho thấy nỗi sợ hãi về chủng tộc đã cắm rễ sâu vào nền chính trị Hoa Kỳ, và sẽ tồn tại mãi.” Tầm quan trọng của vấn đề chủng tộc trong nền chính trị của chúng ta được thể hiện rõ ràng qua chiến dịch tranh cử tổng thống hiện tại. Khẩu hiệu (slogan) đình đám nhất là từ chiến dịch tranh cử của Donald Trump: “MAGA” – Make America Great Again (Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại). Ý của slogan này là Hoa Kỳ đã từng rất vĩ đại, nhưng đã và đang đánh mất hào quang của mình.
Sau 11 năm chống Tham nhũng (2013-2024) nhưng Tham nhũng cứ trơ ra cười vào mũi Đảng là tại sao?
Thời gian gần đây, những người thương vay khóc mướn ở Việt Nam thường đem vấn đề Chủ nghĩa Xã hội và đảng có quyền một mình lãnh đạo ra hù họa dư luận. Tuy nhiên, càng vênh váo và cù nhầy bao nhiêu lại càng lâm vào thế bí. Những bài viết không trả lời được câu hỏi: Ai đã trao quyền lãnh đạo cho Đảng, và tại sao Đảng sợ Dân chủ đến thế?
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.