Hôm nay,  

Trang Sử Việt: Mẫu Liễu Hạnh (1557? - 1578?)

03/06/201500:00:00(Xem: 6005)

Bà Liễu Hạnh còn gọi là: Bà Chúa Liễu, Mẫu Liễu Hạnh hay Thánh Mẫu. Theo tín ngưỡng dân gian, Bà là một vị Thánh, một Tiên nữ. Về năm sinh và mất của Bà không thể xác định chắc chắn, còn theo truyền thuyết Bà đã giáng trần nhiều lần. Tương truyền những lần Bà đã xuất hiện ở trần gian như sau:

- Lần thứ I: Bà giáng sinh tại thôn Quảng Nạp, xã Vỉ Nhuế huyện Thái An, phủ Nghĩa Hưng trấn Sơn Nam (huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định ngày nay), khi ấy thân phụ là ông Phạm Huyền Viên, Bà tại thế thời gian từ năm Giáp Dần, niên hiệu Thiệu Bình nguyên niên (1434) cho tới năm Quí Tỵ niên hiệu Hồng Đức thứ 4 (1473). Ở đời này Bà luôn hiếu thảo thờ phụng cha mẹ, cho đến khi trở về thượng giới.

- Lần thứ II: Bà giáng sinh khi ấy thân phụ là ông Lê Đức Chinh, ở xã Vân Cát huyện Vụ Bản, phủ Nghĩa Hưng. Danh tính Bà là Lê Thị Giáng Tiên, húy là Thắng, tự là Liễu hay Liễu Hạnh. Tới tuổi trưởng thành gả cho Trần Đào Lang ở thôn An Thái, sinh được một trai tên là Nhâm. Ở kiếp này, Bà giáng hạ từ đời Lê Trung Tông (1555), cho tới khi quy tiên ngày mùng 8 tháng 3 âm lịch (năm 1577, đời Lê Thế tông). Nên ngày giỗ là mùng 8 tháng 3 âm lịch, dân gian có câu: “Tháng 8 giỗ cha, tháng 3 giỗ mẹ” (Tháng 8 giỗ Đức Thánh Trần mất ngày 20 tháng 8 năm Canh Tý (1300). Tháng 3 thì giỗ Bà Chúa Liễu). Bà có đền thờ ngay trước làng, gọi là đền Bóng Đa.

- Lần thứ III: Bà giáng sinh tại xã Tây Mỗ, huyện Nga Sơn, Thanh Hóa, lấy chồng họ Mai (truyền thuyết là Bà tái duyên với hậu thân của Đào Lang), sinh được một trai tên là Cổn, được hơn một năm, thì Bà rời cõi trần trở lại thượng giới.

Bà là một nữ thi sĩ uyên bác, đã có một giai thoại về xướng hoạ thơ phú với Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan ở những lần khác nhau. Ngoài ra, Bà còn giáng bút bằng thơ hay câu đối ở nhiều nơi. Những truyền thuyết này đã được nhiều tác giả ghi thành thần tích ở mỗi thời đại như:

- Truyền kỳ tân phả, của Đoàn Thị Điểm thế kỷ (TK) 18.

- Liễu Hạnh công chúa diễn ngâm, của Nguyễn Công Trứ, TK 19.

- Vân Cát Thần Nữ Cổ Lục diễm ngâm (khuyết danh).

- Tam toà Thánh Mẫu, của Đặng Văn Lung, thế kỷ 20.

- Vân Cát Thần Nữ truyện, của Vũ Ngọc Khánh (1990).

Ngoài ra, tiến sĩ Nguyễn Văn Huyên đã viết truyện Chúa Liễu Hạnh bằng Pháp văn năm 1944, sau này Thuận Thiên lược thuật, đăng tạp chí Kiến Thức Ngày Nay. Kể rằng: “Vào thế kỷ 16, ở thôn Thiên Hương (Vân Cát), làng Kim Thái (An Thái), huyện Vụ Bản, có gia đình Lê Thái Công sinh được một gái duyên dáng, đặt tên là Giáng Tiên; có tên này là do tích Lê phu nhân mang thai đã quá ngày; bỗng một hôm Lê ông mệt ngủ thiếp, thấy một đạo nhân chỉ lối lên thiên đàng, cho ông chứng kiến buổi hội thiên đình đang vui, đột nhiên có vị tiên nữ làm vỡ chén ngọc. Thượng đế phạt xuống phàm trần! Đến đây Lê ông sực tỉnh, vừa khi Lê phu nhân hạ sinh một bé gái có khuôn mặt rất sáng sủa, nhân đó đặt tên là Giáng Tiên, huý Thắng, tự là Liễu”. Từ thiếu thời, cô Liễu thông minh duyên dáng, đức hạnh, được dân làng quí mến gọi là Liễu Hạnh, cô thích thi ca ngâm vịnh, cô đã làm bài ca từ vịnh bốn mùa và tự phả vào bài đàn, cùng bạn bè vui hát.


Năm 18 tuổi, cô Liễu Hạnh lấy chồng là Đào Lang, người cùng thôn Vân Cát, vợ chồng sinh được một người con trai. Đến năm Đinh Sửu, tự nhiên không bệnh tật mà mất, nhằm ngày mồng 8 tháng 3 năm đó, hưởng dương 21 tuổi. Thần tích kể rằng: “Khi về trời thấy chưa hết hạn đày, bà lại phải đầu thai xuống trần, nhưng lần này với danh hiệu Liễu Hạnh công chúa, bà không sống với gia đình mà chu du khắp nơi, dừng chân ở mọi danh lam thắng cảnh…”

Theo “Nam Hải Dị Nhân” của Phan Kế Bính, thì người mà Thánh Mẫu xuất hiện làm nữ thi khách để đối đáp thơ văn, nhiều nhất là với Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan. Khi ông Phùng Khắc Khoan đi sứ sang Tàu, lúc qua khúc rừng Đoàn Thành (Lạng Sơn) bỗng gặp một người đàn bà còn trẻ ngồi dựa gốc cây. Qua lời chào hỏi đối đáp làm quen, biết nữ khách đó tên là Liễu Hạnh, rất giỏi điển ngữ văn chương. Ông Phùng Khắc Khoan liền ra câu đối dùng lối chiết tự:

“Tam mộc sâm đình, toạ trước hảo hề nữ tử.”
(Cô gái đẹp ngồi trước rừng rậm.)

Nữ khách (tức chúa Liễu Hạnh) liền ứng khẩu đáp:

“Trùng Sơn xuất lộ, tẩu lai sứ giả lại nhân.”
(Từ rừng rậm sứ giả đi ra.)

Khi Trạng Bùng đi sứ trở về ngang chốn cũ, nhìn lại quang cảnh, thấy những thanh gỗ được sắp thành 4 chữ “Mão khẩu công chúa”. Thấy lạ, ông bèn chiết tự: Chữ mão, chữ khẩu lại được xếp bằng gỗ là chữ mộc; ghép lại thành chữ Liễu. Sực nhớ tên nữ sĩ đã gặp khi trước, ông đoán thế nào người ấy cũng có mặt ở quanh đây? Tìm không xa, lại thấy một cây gỗ nữa khắc bốn chữ “thuỷ mã dĩ tẩu”. Ông đoán biết bà Liễu Hạnh đã hoá, ý muốn nhờ ông dựng đền thờ Bà ở vùng này.

Có một hôm, chúa Liễu Hạnh hiện ra ở Hồ Tây, đàm đạo thi văn, làm thơ liên ngâm cùng với các vị danh nho: Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan; Cử nhân Ngô Tường Sinh; Tú tài Lý Ha.

Cùng làm một bài thơ xuất khẩu liên ngâm, nhưng riêng chúa Liễu Hạnh chỉ làm một câu mở đầu và một câu kết. Đề bài thơ là: “Vịnh cảnh Hồ Tây”

Liễu Hạnh đọc trước:

Hồ Tây trời đất một vùng thiêng

Lý Hạ ứng khẩu tiếp:

Tạo hoá lập nên, thoáng một miền
Nước biếc bên nhà thêm mát mẻ

Phùng Khắc Khoan tiếp:

Rùa vàng dưới nước sống liên miên.
An nhàn đời sống vài gian nhỏ

Ngô Tường Sinh tiếp:

Lờ lững nhà ai một chiếc thuyền
Cảm tác bên hồ, vui gặp gỡ

Chúa Liễu Hạnh kết:

Vầng trăng vằng vặc, ta là tiên.

Chúa Liễu Hạnh đã liệt vào Thánh tứ bất tử của Việt Nam: Thần Tản Viên; Chữ Đồng Tử; Phù Đổng Thiên Vương; Liễu Hạnh (có sách nói người bất tử thứ tư là Công chúa Tiên Dung). Đồng bào đã lập đền thờ Bà nhiều nơi: Đền Phủ Dày ở An Thái, huyện Vụ Bản, Nam Định là lớn hơn hết.

Cảm Niệm: Bà chúa Liễu

Liễu Hạnh giáng trần, ấy Giáng Tiên
Văn thơ thâm thúy, mãi lưu truyền
Hồng trần bụi bặm, sao lưu luyến?!
May mắn gặp Tiên, kẻ hữu duyên!

Nguyễn Lộc Yên

Ý kiến bạn đọc
03/06/201523:19:23
Khách
KInh chuyển.
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.