Hôm nay,  

“Nước Rút” Và, “Đường Trường” Trong Hành Trình Thơ Nguyễn Lương Vỵ

27/12/201400:00:00(Xem: 5526)
1. Cách đây gần hai chục năm, cố thi sĩ Nguyên Sa, trong một bài viết về thơ của một bằng hữu, ông nhấn mạnh tới hai ý niệm “nước rút” và, “đường trường”. Tuy nhiên, tác giả “Áo lụa Hà Đông” không khai triển hai ý niệm này đặc biệt này.

Theo tôi, ý niệm “nước rút” dành cho một người làm thơ, có thể hiểu:

- Ở giai đoạn khởi hành, chìm, lẫn giữa những người đồng thời, cùng có mặt trong một lên đường ồ ạt, đông đảo thì, bằng vào khả năng thiên phú, hắn đã bứt phá, tách thoát khỏi đám đông, để lao mình về phía trước, như một thành tựu lẻ, hiếm. Nhưng, với những ai có ít nhiều kinh nghiệm chữ, nghĩa, đều không ngạc nhiên, bất ngờ khi thấy nửa chừng, những tinh anh sớm phát tiết kia, đã không còn hiện diện ở tiền trường của quảng trường thi ca. Hắn chỉ còn được nhớ tới trong một thời vang bóng.

(Một bằng hữu của tôi, gọi những nhà thơ ở trường hợp này là “Thi sĩ của một thời”).

Còn ý niệm “đường trường”, vẫn theo tôi, dành cho một người làm thơ, có thể hiểu:

- Trong cuộc trường chinh chữ, nghĩa, nhà thơ chẳng những không cho thấy sự đuối sức hay, lập lại chính mình với chiều dài thời gian, tính bằng nhiều thập niên. Mà, mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ, cõi giới thi ca của hắn lại rạng rỡ, ngời sáng hơn; tiếp tục cống hiến người đọc, những đường kiếm huê dạng, mới; mở được những cánh cửa hình ảnh và, ngôn ngữ khác.

Ở trường hợp này, tôi cho họ là những thi sĩ tự thân có được một nội lực thâm hậu, (bên cạnh kinh nghiệm sử dụng chữ và, nghĩa). Nó không còn mang tính thiên phú hoặc…“trời cho” nữa. Đó chính là kết quả của những tháng, năm lao tác, thử nghiệm liên lủy, không ngơi nghỉ.

Hôm nay, sau gần hai mươi năm, cá nhân tôi thấy có một người làm thơ tương thích với hai ý niệm “nước rút” và, “đường trường” kia, đó là nhà thơ Nguyễn Lương Vỵ.

.

blank
Bìa tập thơ “Năm Chữ Ngàn Câu” của Nguyễn Lương Vỵ

2. Nếu tính tới thời điểm cuối 2014 thì thi phẩm “Năm chữ ngàn câu” (1) của Nguyễn Lương Vỵ là thi phẩm thứ 9, kể từ tuyển tập “Âm vang và sắc mầu” xuất bản tại Saigon, 1991.

Những ai từng theo dõi hành trình thi ca của Nguyễn, hẳn còn nhớ, cuối thập niên 1960s, Nguyễn Lương Vỵ đã góp mặt trên tạp chí Văn, Saigon, với một bài thơ chỉ có 4 câu. Bài thơ hiện ra như một đường kiếm huê dạng, khác, lạ hẳn với những bài thơ cùng thời của những tác giả trẻ, mới nhập cuộc, mới lên đường, thời đó:

“Lung linh hồn quê cũ
Mây trắng phủ khắp trời
Nhớ trăng khô hết máu
Muôn trùng dặm núi ơi”.
(Nguyễn Lương Vỵ, “Nửa đêm thức dậy nhìn mây trắng”) (2)

Những người chú ý tới tiếng thơ lạ này, càng ngạc nhiên hơn nữa, khi được biết mấy câu thơ trên, được viết xuống, khi tác giả chỉ mới 16 tuổi.

Không lâu sau đó, những bài thơ kế tiếp của Nguyễn, vẫn cho thấy khả năng bứt phá, kiến tạo một hướng đi lẻ, hiếm, như:

“Biển đắp một tòa sương
Lạnh đôi bờ vú nhỏ
Nàng tắm trong tịch dương
Núi gầm lên khóc nhớ…”
(Nguyễn Lương Vỵ, “Cảm ứng”) (3)

Kể từ đấy, tới hôm nay, mỗi thi phẩm của Nguyễn Lương Vỵ là một thao-thiết mở ra những cánh cửa khác, cho ngôi nhà thi ca của mình.

Kể từ đấy, tới hôm nay, mỗi thi phẩm của Nguyễn Lương Vỵ là một đầu tư trí tuệ cật lực mở vào những chân trời mới.

Và, hôm nay, những người quan tâm tới cõi-giới thơ Nguyễn Lương Vỵ không còn lo lắng: Về đường trường tiếng thơ Nguyễn, có thể sẽ sớm rơi vào tình trạng đuối sức, “mất lửa”; khi qua gần 200 trang “Năm chữ ngàn câu” của ông, người đọc sẽ gặp được một cách dễ dàng (tới thảng thốt), những câu thơ lạ, mới như:

“Ngày rớt qua kẽ tay
Tháng rơi theo bóng ngày

Nghe năm cùng tháng tận
Nhìn bóng lửng hình lay
Sắc mầu im lắng nở
Âm vang nín lặng bay
Là lúc mùa giáp hạt
Em rớt qua kẽ tay”.
(Nguyễn Lương Vỵ, trích “Mùa giáp hạt”)

Hoặc:

Tuổi thơ cha khuất bóng
Tuổi già mẹ khóc con
Ta gặm câu thơ mòn
Chữ vô hồn vô nghĩa
Khói nhang rưng mộ địa
Em bay đi xa rồi
Trời đất vốn mồ côi
Vốn mịt mù huyễn mộng
Tiếng ma tru bi thống
Hay tiếng em gọi ta?!
(Nguyễn Lương Vỵ, trích “Hát khẽ bên mồ II”)

Hoặc nữa:

Câu thơ bay đi xa
Chẳng còn ai nhớ nữa
Chiều vàng vừa khép cửa
Đêm thu khoác vai ta
Chiếc lá khô nhớ nhà
Cây im không dám nhắc
Đất lạ trầm âm nhạc
Trời quen bóng phố gầy
Hỏi thăm nhau bóng lay
Tìm tay nhau bóng vỡ
(Nguyễn Lương Vỵ, trích “Không đề VIII”)

Vân vân…

.

3. Không kể thơ tự do, những thể thơ phổ cập tại quảng trường thi ca Việt, có thể liệt lê như: Năm chữ, bảy chữ, tám chữ và, lục bát!

Mỗi thể thơ, tự thân, đều có những ưu khuyết riêng và, sự đắc dụng của mỗi thể thơ, lại tùy nơi tài năng mỗi tác giả.

Với tôi, ba thể thơ dễ rơi vào tình trạng dư, thừa chữ là thơ bảy chữ, tám chữ và, lục bát. Thể thơ 6/8 này thường được các nhà thơ dùng để viết trường khúc hay, để thù tạc, đổi chác chút thực dụng! Có dễ vì thế mà, tôi nhớ, đã lâu, một tác giả từng viết xuống, đại ý, nếu phải đọc vài ngàn câu lục bát, để tìm cho được một câu lục bát hay thì, quá khổ cho người đọc!!! Nếu không muốn nói nó giống như một hình thức tra tấn trắng vậy…

(Tới giờ, chúng ta chỉ có duy nhất một Nguyễn Du, vị cha già của 6/8 trường thiên này mà thôi).

Đứng trước những thể thơ dễ dư, thừa chữ, thì thể thơ bốn và, năm chữ, được ghi nhận là hình thức tinh ròng, chắt lọc hơn cả.

Tuy nhiên, các nhà thơ của chúng ta hầu như ít ai muốn vũ lộng tài năng mình, với thể thơ 4 chữ - - Vì nó gần với “vè”. Nên hầu hết đều tìm đến với thơ 5 chữ.

Phải chăng cũng chính vì tính chắt lọc, kiệm chữ của thể thơ 5 chữ, mà nhiều kinh kệ đã chọn thể thơ này, để chuyển tải những ý nghĩa uyên áo của lẽ đạo?

Lại nữa, vẫn theo tôi, cũng chính vì tính chắt lọc, kiệm chữ của thể thơ 5 chữ, khiến rất ít thi sĩ chọn thể thơ này cho những trường thiên của họ.

Nói cách khác, nếu một thi sĩ không đủ hội đủ những yếu tố như nội lực, bề dầy kinh nghiệm sống, không kinh qua những thảm kịch dữ dội, khốc liệt trong đời thường …không ai muốn trở thành lố bịch hoặc, tự hủy mình bằng thử thách chinh phục đỉnh-núi-trường-thi-ngũ-ngôn.

Tôi nghĩ, tôi không hề bất cập khi kết luận: Nguyễn Lương Vỵ là người hội đủ những yếu tố cần thiết để chinh phục đỉnh-núi-trường-thi-ngũ-ngôn, vừa kể.

Nguyễn không chỉ có được cho mình một nội lực thi ca thâm hậu, một đam mê quyết liệt tới mức sẵn lòng đánh đổi mọi tiện nghi, may mắn (?) đời thường và, nhất là những thảm kịch, ngộ nhận mà Nguyễn đã trải qua tự những ngày thơ ấu tới hôm nay!…Tất cả vẫn còn đeo đẳng Nguyễn, như thể, đó mới chính là chiếc bóng, thẻ nhận dạng, song hành cùng Nguyễn trong cuộc trường chinh chữ, nghĩa mang tính sử-thi trên lộ trình thi ca của riêng ông…

Với tôi, sự kiện ấy còn mang tính nhất quán: Tính độc-hành của một Nguyễn Lương Vỵ, thi sĩ, từ khởi đầu, quá khứ; tới “Năm chữ ngàn câu”, hôm nay, khi ông đã bước qua tuổi sáu mươi - - Giữa nhân gian trợn trắng bi ai này.

Du Tử Lê,

(Calif. Dec. 2014)

……………

Chú thích:

(1) “Năm chữ ngàn câu”, Q&P hợp tác với nhà XB Sống, ấn hành, California, Dec. 2014.

(2) Trích Du Tử Lê, “Phác họa toàn cảnh sinh hoạt 20 năm VHNT miền Nam (1954-1975)”, quyển 1, trang 449. Người Việt Books ấn hành, California, 2014.

(3) Sđd.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Người Việt rất hay buồn. Họ buồn đủ chuyện, đủ thứ, đủ cách, đủ kiểu, đủ loại và buồn dài dài: buồn chồng, buồn vợ, buồn con, buồn chuyện gia đình, buồn chuyện nước non, buồn chuyện tình duyên, buồn trong kỷ niệm, buồn tình đời, buồn nhân tình thế thái, buồn thế sự đảo điên, buồn tàn thu, buồn tàn canh gió lạnh … Đó là chưa kể những nỗi buồn buồn lãng xẹt: buồn trông con nhện giăng tơ, buồn trông cửa bể chiều hôm, buồn trông nội cỏ rầu rầu, buồn trông con nước mới sa …
Ngày 09/05/2024, đảng CSVN tung ra 5 “điều răn” mới quy định tiêu chuẩn gọi là “chuẩn mực đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới”, nhưng liệu có dậy được ai không? Tất cả 5 Điều chứa đựng những tiêu chuẩn đã có từ lâu, nhưng thất bại vì những chứng hư tật xấu trong đảng vẫn tồn tại, đứng đầu là tham nhũng, tiêu cực và chủ nghĩa cá nhân, lợi ích nhóm...
Trong thời gian gần đây, thế giới đã chứng kiến cuộc khủng hoảng lãnh đạo chưa từng thấy ở Việt Nam kể từ ngày quốc gia Á châu này nằm trong tay thống trị của đảng Cộng Sản gần một nửa thế kỷ. Tính từ tháng Năm, 2022 đã có hai chủ tịch nước, hai phó thủ tướng, một trưởng ban kinh tế trung ương, chủ tịch quốc hội, và một thường trực ban bí thư kiêm trưởng ban tổ chức trung ương bị cách chức vì chiến dịch chống tham nhũng. Bộ Chính Trị Khóa 13 cũng bị mất năm ủy viên hiện chỉ còn 13 người. Nhiều nhà quan sát chính trị tự hỏi đã đến lúc Việt Nam chuyển biến thành một nước dân chủ hay chưa? Kinh nghiệm những nước cộng sản Trung Âu và Đông Âu đã trải nghiệm qua tiến trình này khoảng bốn thập niên về trước có giúp gì cho Việt Nam ngày nay được không? Đây cũng là chủ đề của bài báo này
Dù sống cùng thời nhưng khác nơi nên tôi không gặp Nguyễn Tất Thành lần nào ráo. Giao lưu, tương tác, chit chat … (qua không gian mạng) cũng không luôn. Bởi vậy, tôi chỉ đoán già/đoán non rằng con đường học vấn của ổng không dài và (dường như) cũng không được suôn sẻ gì cho lắm.
Trong lúc đảng chuẩn bị các kỳ họp Trung ương để tìm nhân sự cho khóa đảng XIV thì rộ lên tuyên truyền về “dân chủ Xã hội Chủ nghĩa” ở Việt Nam. Đảng nói văng mạng rằng: “Đặc trưng của dân chủ xã hội chủ nghĩa là quyền dân chủ của công dân không ngừng được mở rộng trong tất cả các lĩnh vực hoạt động của nhà nước, của xã hội mà cơ bản nhất là dân chủ về kinh tế.” Nhưng thực tế không phải như vậy. Tất cả mọi quyết định điều hành việc nước phải “do đảng, vì đảng và của đảng”.
Một cuộc tranh giành quyền lực kéo dài được ngụy trang bằng một chiến dịch chống tham nhũng rộng rãi hơn đã dẫn tới việc bất ngờ sa thải Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng, và chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ. Kết quả của cuộc đấu tranh này sẽ khiến những người vẫn còn hy vọng rằng Việt Nam có thể tham gia một "Liên minh chống Trung Quốc" phải suy nghĩ lại. Mặc dù cuộc tranh giành quyền lực này không liên quan đến chính sách đối ngoại nhưng nó sẽ khiến Việt Nam gần gũi hơn với Trung Quốc và xa rời phương Tây.
Những năm gần đây, chúng ta thường thấy trên mạng xã hội, nhiều trường hợp rơi nước mắt trong giới lao động tại Việt Nam, khi những người dân nghèo vướng phải căn bệnh ung thư hiểm nghèo, không có bảo hiểm y tế hay tiền bạc để chữa trị, chiến đấu chiếu lệ với tử thần, qua đời trong cảnh thương tâm. Hầu như căn bệnh ung thư lan tỏa khắp nơi, nhất là vây hãm giới lao động trong các xóm nghèo...
30.04.2024 lọt ra tin kêu cứu từ trại giam số 6 tỉnh Nghệ An nên thời gian lúc này phải dành cho việc khẩn cấp là viết thư báo động cho các tổ chức bảo vệ Nhân quyền quốc tế và các tòa đại sứ tại Hà Nội, nhờ can thiệp về vấn đề một số tù nhân lương tâm đang bị nhốt tại Việt Nam trong những phòng giam chật hẹp...
Lý do Việt Nam còn chậm tiến và lạc hậu hơn các nước láng giềng vì đảng CSVN chỉ muốn chỉ huy trí thức, thay vì hợp tác chân thành trong dân chủ và tự do...
Với sự miễn nhiệm ba nhân vật ở vị trí lãnh đạo quốc gia như Chủ tịch nước và Chủ tịch Quốc hội của Việt Nam chỉ trong vòng một năm từ năm 2023 đến năm 2024 vì lý do ba nhân vật đó thiếu liêm chính đã dẫn đưa người ta có cái nhìn về viễn ảnh trước mắt là sự khủng hoảng cơ cấu và sự bất ổn kinh tế làm cho giới đầu tư nước ngoài e dè, thận trọng, và chuyển hướng đầu tư sang các quốc gia khác...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.