Hôm nay,  

Tản Mạn Về Kiên Giang, Nhà Thơ Minh Hương Việt Hóa

05/11/201400:00:00(Xem: 7583)

Trong văn chương Việt Nam hiện đại có một sự kiện đặc biệt là ba thơ-truyện của ba nhà thơ Bắc Trung Nam nổi tiếng lại xuất hiện rất gần nhau, cuối thập niên 40 và đầu thập niên 50. Cả ba đều đã được phổ nhạc, phổ rất đạt, tiếng nhạc lời ca tuy có tăng gia thêm giá trị cho các bài thơ, đem tác phẩm đến người thưởng thức nhiều hơn, nhưng trên căn bản cả ba bài đều được công nhận là tuyệt tác, đáng nể. Mỗi bài có giá trị riêng nhưng lớp người thưởng thức chung quy chỉ là một nhóm: dễ ngậm ngùi vì sự bi thiết của một tình yêu có người nữ bất hạnh, có chia ly mà không có tái hợp vốn nghịch lại với sở thích truyền thống của người nghe/đọc Việt Nam. Hữu Loan và Kiên Giang với người vợ/người yêu bất hạnh, Vũ Anh Khanh với vùng quê tan tác vì bom đạn – mà ta có thể coi là tượng trưng cho sự tan tác của một cành hoa, một người nữ không may.

Tại sao họ sáng tác ngược lại với sở thích chung lâu đài mà lại được ưa thích? Phải chăng vì cảm quan con người gần đây đã đổi thay? Cũng có thể người nghe đọc thơ-truyện đó thì liên tưởng đến sự bi thương của mình hay người thân, ít ra cũng là sư bi thương của một ai đó sống trong thời đại nầy, cách câu chuyện thiệt của ba tác giả không xa.

Người ta đọc thơ của họ, thấy liền trước mắt hình ảnh từ sự thật, cho nên dễ hóa mình là một phần tử của câu chuyện, hay đi xa hơn một chút, sự kiện đó, bi kịch đó mình đã thấy hoặc đã xảy ra cho mình. Tác giả đem chính đời họ để nói giùm người thưởng thức, vì có sự tương tác và đồng cảm nên tác phẩm được chào đón nhiều.

Hữu Loan kể về người vợ đầu tiên, người vợ ông coi như tình yêu em gái, trong sáng với thương yêu che chở, Kiên Giang với cô Nguyễn thị Nhiều bạn học, từng trao đổi bài vở, buông bắt chuyện không đâu vô đâu với những ánh mắt tha thiết không bao giờ nói và nhất là không hứa gì nhưng là hứa trong tâm tư rất nhiều. Vũ Anh Khanh là chuyến về Trảng Bàng chơi nhà bạn văn đồng tư tưởng, ghé họ đạo Tha La, xúc động trước sự hoang tàn do chiến tranh tác động lên đời sống của dân xóm đạo hiền lành khiến cho hầu hết thanh niên trong xóm tức giận quyết phải lên đường làm một cái gì cho xứ sở, không cần biết sau đó là kết cuộc sẽ như thế nào…

blank
Kiên Giang Hà Huy Hà năm 2008. (Hình trên mạng)

Hữu Loan và Vũ Anh Khanh đã mất từ lâu, một người chết già sau thời gian dài sống đời chua xót vì bài thơ mang đến và vì thái độ phản kháng với chế độ, một người chết trẻ khi quyết lội về vùng đất tự do để được sống và viết phù hợp với đóa tài hoa của mình.

Và mới hai ngày trước đây, chiều 31/10/2014 Kiên Giang đã nằm xuống. Cái chết của thi sĩ chuyên viết thơ-truyện nầy coi như Trời cho một bonus khấm khá, 87 tuổi, sanh năm 1927, chết già, tuy rằng những tháng cuối đời phải buồn bã vì bịnh tật và nghèo khổ. Bịnh tật là do ba tháng trước ông bị xe đụng. Ôi sao những người văn nghệ già của đất nước ta bị tai nạn xe cộ nhiều như vậy! Sơn Nam trước đây, Kiên Giang bây giờ, và còn biết bao nhiêu người nữa mà ta không biết! Người già được Bác Sĩ khuyên cố tránh đừng để té ngã gãy xương, xương già khi gãy khó lành. Ta nói mà không sợ quá lố, hai cái chết nầy là kết quả trực tiếp từ những tai nạn mấy tháng trước ngày mất. Những sáng tác ấp ủ cuối đời của họ không thực hiện được vì những anh nầy ông nọ say xỉn chạy càn, phóng ẩu sau cơn vui…

Thôi! Cứ tạm an ủi nhau để khỏi bi thiết quá độ và trách móc vô ích, ta coi như số của Sơn Nam và Kiên Giang là như vậy. Hết số thì về Trời. Tác phẩm để lại cho Đời bao nhiêu đó đã đủ. Đời chỉ đáng nhận số lượng bấy nhiêu đó từ những người-Trời nầy thôi.

* * *

Tôi giao tình thân mật với Sơn Nam từ trước 75, những năm 69-79 hai người thường nhậu rượu đế ở tệ xá trên đường Chi Lăng; trước 75 thì có chút gì nhè nhẹ rẻ tiền đưa cay, sau 76 thì nhậu khan phần lớn, nhưng chỉ có dịp quen biết với Kiên Giang độ chừng mười năm nay thôi. Mười năm nhưng gặp nhau độ 5, 7 lần, khi thì ở hội quán Nghệ sĩ đường Cô Bắc, khi thì ở quán cóc đường Nguyễn Cư Trinh, hai lần sau cùng nhân đám tang nhà văn Thẩm Thệ Hà. Chúng tôi không còn trẻ nữa nên hai người chỉ nhăm nhi cà phê, Kiên Giang ly đen nhỏ với một món ăn gì đó, người ở xa về ly cà phê sữa thiệt ít cà phê. Chuyện lan man đủ thứ không ra đầu đuôi ngô khoai gì, đụng đâu nói đó. Thỉnh thoảng do thói quen cố hữu, tôi – hay người đi theo – ghi lại vài ba ý đặc biệt hoặc năm ba câu thơ của người mình nói chuyện, nhờ đó giờ đây tôi có được một vài câu thơ- miệng của Kiên Giang. Tôi gọi là thơ-miệng vì ông đọc cho tôi, và thiệt tình không biết ông có đọc cho ai khác hay đã in ở đâu chưa.

Tôi xếp Kiên Giang vô lớp nhà thơ của tình yêu: Tình yêu gái trai không trọn vẹn mà ai cũng biết, tình yêu quê hương âm ỉ, giấu giếm trong lòng, chỉ khi hứng chí tuôn ra chút chút với bạn bè có chút gì liên quan đến chữ nghĩa hay ý kiến về những chuyện xảy ra chung quanh.

Kiên Giang có lối nói chuyện thẳng thừng, gọn, không rào đón, tiếng nói mạnh, thấy trong cách nói sự ngay thẳng của người Nam. Ông thường nhấn mạnh, tôi là người gốc Hoa, có thể gọi là Minh Hương. Nhưng Minh Hương gì nữa? Tôi trở thành người Việt chánh cống lâu rồi hồi nào không biết, có lẽ do chơi thân với toàn là người Việt… rồi mất gốc luôn. Nơi đây là quê hương tôi, quê hương con cháu tôi…


blank
Bìa bản nhạc thơ Kiên Giang do Huỳnh Anh phổ. (Tài liệu từ Internet)

Tôi cảm giác sờ đụng được sự thành thật trong lời nói của người thơ kiêm soạn giả cải lương nầy. Việt Nam đã có nhiều người gốc Hoa bồi đắp cho văn chương Việt bằng tác phẩm có giá trị như Trịnh Hoài Đức, Mạc Thiên Tích, Hồ Dzếnh… có thể là cả Phan Thanh Giản và nhiều nhà thơ sành chữ Hán khác của Miền Nam nữa… Dòng máu cha sanh mẹ tạo hình thành con người sinh học của ta, nhưng chính tâm hồn và cảm thức của ta mới quan trọng, nó được cá nhân ta hoàn thiện từ từ theo thời gian và nhận thức để tạo nên con người thật là ta với bản ngã của ta. Tâm hồn Kiên Giang đáng quí ở chỗ chung thủy với người yêu, cảm thấy mình có lỗi khi không hiểu ý tình của người yêu cho nên ray rứt trường kỳ, sự ray rứt đó tạo nên thơ-truyện buồn Hoa Tím Thôi Cài Lên Mái Tóc. Ray rứt đó khiến ông thay đổi đoạn kết câu chuyện dầu rằng thoại trước đã thành công. Sự công bố câu chuyện tình yêu, công bố hình ảnh người tình quá vãn là sự biểu hiện đáng quí cái tâm hồn chung thủy của ông.

Tôi nhớ lần nào đó mình đã hỏi:

Mối tình đó anh mang trong lòng hoài làm sao chịu nổi, làm sao sống?

Và ông trả lời gần như gằn từng tiếng:

Đâu phải lúc nào cũng nhớ đâu! Nhưng mà tiếc vì mình vô tình, vì mình lo công việc riêng làm mất hụt nhiều thứ. Mình có lỗi nhiều với người ta. Nhắc nầy làm nọ cũng là cách xin lỗi người ta.

Ông chuyển đề tài hỏi tôi có đem theo quyển Lúa Sạ Miền Nam có bút tích của ông mà tôi mua được ở chợ sách cũ như đã hứa trước khi đến không. Tôi đưa ra mấy trang copy bút tích của ông, của Sơn Nam …, ông cám ơn sau khi đã coi lại cẩn thận.

Tôi ngồi nhìn người thơ lớn tuổi, điếu thuốc gắn trên môi, tàn dài chưa rớt, tay lật lật những tờ giấy, ngừng lại hơi lâu ở hình chụp chung hai người trẻ Kiên Giang và Sơn Nam, tôi ngẫm nghĩ về cách ông cẩn thận và trân trọng đối với kỷ niệm trong khi đó cũng như bạn chí cốt của ông trước đây, khi được tặng tiền đã hờ hững bỏ túi không bao giờ đếm hay sành soạn coi ít hay nhiều.

Nói chuyện với ông mấy lần tôi biết được lắm điều thú vị mà trước nay mình không biết. Chẳng hạn nhà thơ Truy Phong sống suốt đời ở quê trên cù lao Dài, quận Vũng Liêm, đã chết cách đây 4 năm. (lúc chúng tôi nói chuyện 2010), chẳng hạn như nhà văn Nguyễn Tử Quang của xứ Sóc Trăng cũng có làm thơ và ông ta ký là Vô Ngã, chẳng hạn như tuồng cải lương Trương Chi Mỵ Nương tuy để tên một mình Hà Huy Hà nhưng có sự góp sức đáng kể của Hà Triều và Hoa Phượng mà vì lý do tế nhị với đoàn hát không thể để tên ba người.

blank
Địa chỉ ông cho tôi trước khi về Long Xuyên năm 2010. Cả hai bây giờ đã trở thành hư ảo, số đt thì càng hư ảo hơn!

Tôi ngạc nhiên nhiều khi ông kiên nhẫn đọc đi đọc lại cho người chép chép bài thơ của thi sĩ Nguyễn Văn Cổn, một bài thơ quê hương nhè nhẹ kiểu thơ của thi sĩ Bàng Bá Lân, thầy tôi:

Tù-và văng vẳng nhớ quê xưa,
Nhớ bóng làng ta khuất lá dừa,
Nhớ ngọn lúa vàng bông phất phới,
Nhớ bần bên rạch ngọn đong đưa… (thơ Nguyễn Văn Cổn)

Phải yêu thắm thiết quê hương nầy mới nhớ được bài thơ ít người biết kia! Càng ngạc nhìên hơn nữa khi ông đọc vài bài thơ-miệng của mình về thời thế với nội dung mà tiếng bên đó bây giờ gọi là nhạy cảm, có vấn đề, nói chơi với nhau thì được viết lên giấy trắng mực đen thiệt là gay.

Tôi thích nhứt ba câu mà Kiên Giang nhấn mạnh trước khi đọc: Tôi làm ba câu thôi, ai muốn hiểu sao thì hiểu, ai muốn làm thêm thì cứ làm, tôi không chịu trách nhiệm:

Đĩ điếm cũng thay khung mặt nạ,
Đổi ngón nghề, lang chạ gian manh.
Hòa Bình tưởng hết chiến tranh… (thơ-miệng Kiên Giang)

Tôi ứng khẩu thêm vô câu cuối theo cái nhìn của người ở ngoài nước…, ông nghe xong chỉ cười cười không nói gì.

Có lần trước khi chia tay ông nhấn mạnh về tình người, tình bạn về cách sống của người lúc lên voi làm sao cho phải đạo và kết luận bằng cặp thơ:

Cho hay hết thảy đều tan biến,
Còn lại ngàn sau chút nghĩa tình. (thơ-miệng Kiên Giang)

Và, ông vừa nói vừa mỉm cười: – ít thấy ở ông. Có hai câu nầy cho Việt Kiều:

Dầu xa cách mấy trùng dương,
Ở đâu cũng có quê hương trong lòng. (thơ-miệng Kiên Giang)

Anh Kiên Giang! Hơi khác với trường hợp anh sanh ra và sống trọn đời ở Việt Nam nên tha thiết với quê hương phong cảnh Việt, trở thành người thuần Việt, không để ý gì đến xứ sở máu thịt Trung Hoa, chúng tôi sanh ở Việt Nam, sống thời gian dài ở nước ngoài hơn sống ở nơi mình sanh ra nên có cái quê hương của tuổi trẻ trong lòng, đồng thời cũng có cái quê hương trung niên trong trí, cái quê hương thứ hai đã bao bọc và che chở chúng tôi khi bị quyền lực trên cái quê hương thứ nhứt làm khó dễ trăm bề…

Vâng, thưa anh Kiên Giang, dẫu xa quê hương cách mấy, trong lòng những người xa xứ chúng tôi cũng canh cánh nhớ về cái quê hương đầu tiên nơi mình được sanh thành. Nhưng cũng từ lòng yêu quê hương thâm sâu đó chúng tôi đau đớn thấy nó bị bóc lột lợi dụng, ngóc đầu lên không nổi, thua kém những đất nước chung quanh….

Nguyễn Văn Sâm (California, ngày 03 tháng 11 năm 2014)

Ý kiến bạn đọc
06/11/201407:25:04
Khách
Đem Vũ Anh Khanh ngang hàng với Hữu Loan và Kiên Giang là một sự khập khễnh lớn trong văn học. Điều này cho người đọc hiểu được sự thô thiển về văn chương của tác giả bài viết.
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Trong tháng Hai vừa qua, cái chết đau thương, lẫm liệt của nhà đối kháng người Nga Alexei Navalny trong tù đã gây sầu thảm, phẫn nộ cho toàn cộng đồng tiến bộ nhân loại. Đối với người Việt Nam tiến bộ, nỗi đau lại càng sâu thêm khi trong ngày cuối cùng của tháng Hai, ngày 29, nhà cầm quyền độc tài Hà Nội bắt đi cùng lúc hai nhà đấu tranh kiên cường...
Ít lâu nay, vấn đề “bảo vệ an ninh quốc gia” được nói nhiều ở Việt Nam, nhưng có phải vì tổ quốc lâm nguy, hay đảng muốn được bảo vệ để tồn tại?
Xuất hiện gần đây trong chiến dịch tranh cử tổng thống, Donald Trump, ứng cử viên đảng Cộng hòa, đã lên tiếng đe dọa là sẽ không bảo vệ cho các đồng minh thuộc khối NATO trong trường hợp bị Nga tấn công. Ý kiến này đã dấy lên một cuộc tranh luận sôi nổi tại châu Âu, vì có liên quan đến việc răn đe Nga và ba kịch bản chính được đề cập đến khi Donald Trump trở lại Nhà Trắng vào năm 2025 là liệu Liên Âu có nên trang bị vũ khí hạt nhân chăng, Pháp có thể tích cực tham gia không và Đức nên có tác động nào.
Tôi không biết chính xác là Văn Trí đã đặt chân đến Đà Lạt tự lúc nào nhưng cứ theo như ca từ trong nhạc phẩm Hoài Thu của ông thì Cao Nguyên Lâm Viên ngày ấy vẫn hoang vu lắm. Ngoài “núi rừng thâm xuyên”, với “lá vàng rơi đầy miên man”, cùng “bầy nai ngơ ngác” (bên “hồ thu xanh biếc”) thì dường như không còn chi khác nữa! Từ Sài Gòn, khi tôi được bố mẹ “bế” lên thành phố vắng vẻ và mù sương này (vào khoảng giữa thập niên 1950) thì Đà Lạt đã bị đô thị hóa ít nhiều. Nơi đây không còn những “bầy nai ngơ ngác” nữa. Voi, cọp, heo rừng, beo, báo, gấu, khỉ, vượn, nhím, mển, gà rừng, công, trĩ, hươu, nai, trăn, rắn, sóc, cáo, chồn… cũng đều đã biệt tăm. Người Thượng cũng ở cách xa, nơi miền sơn cước.
Vi hiến có nghĩa là “vi phạm” hay đi ngược lại những gì Hiến Pháp (HP) quy định. HP không có gì là cao siêu hay quá bí ẩn. Hiến Pháp trong bản chất chỉ là một bộ luật. Sự khác biệt chỉ là: HP là một bộ luật nền tảng hay nôm na là “luật mẹ”. Không những không cá nhân hay hữu thể pháp lý nào trong xã hội, kể cả hành pháp (tức chính phủ) được quyền vi phạm HP, mà không một luật pháp nào của lập pháp (tức quốc hội) được quyền vi phạm HP cả...
Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ tiếp tục đi theo đường mòn Chủ nghĩa đã lu mờ trong thưc tế và thất bại trong hành động tại Đại hội đảng kỳ 14 vào tháng 1 năm 2026. Khẳng định này của ông Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư đảng là bằng chứng cho tính chai lỳ, chậm tiến và lạc hậu, không phải của riêng ông mà toàn đảng...
Thứ Bảy 24/2/2024 đánh dấu hai năm kể từ khi Nga phát động cuộc chiến tranh xâm lược toàn diện nước Ukraine. Cuộc xung đột đang lâm vào tình trạng bế tắc và ngày càng tàn khốc. Nhân dịp này ông Nick Schifrin, một phát thanh viên của kênh truyền hình PBS, đã tổ chức một buổi thảo luận bàn tròn về hiện tình của cuộc chiến, nó có thể đi đến đâu và chính sách của Hoa Kỳ đối với Ukraine sẽ ra sao. Hiện diện trong buổi thảo luận có các ông Michael Kofman, John Mearsheimer và bà Rebeccah Heinrichs...
Đôi lời từ tác giả: “Sẽ có nhiều người không thích bài viết này. Họ sẽ cảm thấy bị công kích và rằng thật bất công. Phản ứng càng mạnh mẽ càng cho thấy nỗi sợ hãi về chủng tộc đã cắm rễ sâu vào nền chính trị Hoa Kỳ, và sẽ tồn tại mãi.” Tầm quan trọng của vấn đề chủng tộc trong nền chính trị của chúng ta được thể hiện rõ ràng qua chiến dịch tranh cử tổng thống hiện tại. Khẩu hiệu (slogan) đình đám nhất là từ chiến dịch tranh cử của Donald Trump: “MAGA” – Make America Great Again (Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại). Ý của slogan này là Hoa Kỳ đã từng rất vĩ đại, nhưng đã và đang đánh mất hào quang của mình.
Sau 11 năm chống Tham nhũng (2013-2024) nhưng Tham nhũng cứ trơ ra cười vào mũi Đảng là tại sao?
Thời gian gần đây, những người thương vay khóc mướn ở Việt Nam thường đem vấn đề Chủ nghĩa Xã hội và đảng có quyền một mình lãnh đạo ra hù họa dư luận. Tuy nhiên, càng vênh váo và cù nhầy bao nhiêu lại càng lâm vào thế bí. Những bài viết không trả lời được câu hỏi: Ai đã trao quyền lãnh đạo cho Đảng, và tại sao Đảng sợ Dân chủ đến thế?
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.