Hôm nay,  

Chuyện Cơm, Phở: Đời Sống Ái Ân Từ 3000 Năm Trước Đến Nay

18/07/201300:00:00(Xem: 7901)
Trong một bài trước, Cỏ May có nhắc tới lý do thứ nhứt đưa đến vợ chồng ly dị nhau là “ngoại tình”. Lý do thứ nhì là “tiền bạc”. Số vợ chồng ly dị ngày nay ở Âu châu rất cao, riêng ở Pháp, lên tới 46,2%. Cứ gần một cặp trên hai chia tay nhau. Số ly dị sau 3 năm cưới nhau đang tăng lên 50%. Riêng năm 2005, số ly dị đạt kỷ lục, 52,3% do thủ tục ly dị vừa được đơn giản tối đa. Trong lúc đó, ở Việt nam, hiện tượng xã hội này vừa trở thành khá phổ biến. Lý do của sự chia tay nhau cũng không khác ở Âu châu hay Pháp cho lắm. Tiền và Ngoại tình.

Từ 3000 năm

Hôn nhơn như ta biết ngày nay chỉ là một sáng tạo gần đây của những người nam nữ yêu nhau. Thực tế, họ đã yêu nhau và sống chung thành cặp như vợ chồng nhưng không biết cưới hỏi đã có từ 3000 năm rồi. Từ Hi lạp cổ thời cho tới khi đời sống ái ân hay tình dục của phụ nữ được giải phóng, con người đã thử nghiệm qua hàng ngàn cách yêu đương và ái ân. Tuy thời gian thử nghiệm dài như vậy nhưng người ta vẫn không thể giử được đời sống lứa đôi bền vững. Ở những thành phố lớn Âu châu, ngày nay, tính chung có tới 50% cặp vợ chồng chia tay nhau. Nhưng có dư luận cho rằng đằng sau mặt tiêu cực đó có khía cạnh tích cực không thể chối cải. Đó là hôn nhơn thật sự được thực hiện trên tình yêu trong sáng, bất vụ lợi, điều này khác hẳn với hôn nhơn của giai cấp trưởng giả trước đây, họ cưới nhau vì quyền lợi vật chất như của hồi môn hay trao đổi những quyền lợi chánh trị hoặc để có con cái nối dỏi. Theo đó, hôn nhơn không gì khác hơn là một phương tiện xây dựng xã hội.

Ở Việt nam còn cưới nhau theo tiêu chuẩn cùng vai vế xã hội, tức phải môn đăng hộ đối. Những loại hôn nhơn này đặt nhẹ tình yêu của trai gái, hay không cần có tình yêu. Do đó việc ly dị trở thành khó khăn vì mất quyền lợi. Vì không thể ly dị, ngươì đàn ông cần có nhiều người đàn bà khác để yêu thương theo tình cảm chơn thật hay chỉ để thỏa mản tính ái dục. Ngày nay, phần lớn hôn nhơn kết thúc bằng sự đổ vở do thiếu chung thỉ với nhau.

Vài nét về lịch sử đời sống ái ân

Ở thời xa xưa, xưa lắm, con người chưa biết sống kết ước thành lứa đôi như vợ chồng ngày nay ta biết. Đàn ông hoàn toàn tự do tìm phụ nữ để sống với thú ái ân của mình, miển đừng pha trộn các thứ với nhau. Theo nhà hùng biện hy lạp Apollodore vào thế kỷ thứ IV trước công nguyên thì người ta tách rời các trường hợp quan hệ nam/nữ ra từng thứ loại phân minh: Các “bà bồ” là để thỏa mãn thú vui tình dục, các “bà lẻ” là để săn sóc mình hằng ngày, các bà vợ là để có con cái nối dõi chánh thống và bảo quản gia đình. Có nhiều bà cùng lúc, vậy người xưa sống chung và quản lý các bà như thế nào để tránh cảnh nhà khỏi bị cháy? Người hy-lạp cổ xưa có thể đem về căn nhà của mình tới 50 phụ nữ trong đó có bà vợ chánh thức, bà vợ thứ, tức phụ nữ cưới về không có hồi môn, các bà hầu và những phụ nữ nô lệ. Tất cả đều thuộc sở hữu của người chủ đàn ông và phục vụ ông chủ theo ý muốn của ông chủ. Thậm chí nhà hiền triết Socrate có một bà vợ chánh thức, một bà lẻ và một người tình trẻ đẹp. Ông còn có thêm bao nhiêu nữ nô lệ nữa, không nghe nói tới.

Đối với người vợ chánh thức, luật pháp chỉ đòi hỏi 2 điều: hồi môn và trinh tiết của người phụ nữ vì hôn nhơn là sự thương thảo giữa hai gia đình. Thực hiện hôn nhơn rất đơn giản: người đàn ông chỉ có bắt tay người cha của người phụ nữ là hai người nam-nữ chánh thức thành vợ chồng. Người vợ có nhiệm vụ sanh con, coi sóc nhà cửa và thỉ chung với chồng. Nếu ngoại tình bị bắt được, người phụ nữ bị chồng bỏ rơi và có thể bị đem bán như nô lệ. Người đàn ông có thể thôi vợ và cưới vợ khác bao nhiêu lần cũng được, với điều kiện phải hoàn trả đủ hồi môn. Ở La-mã cổ, vào năm thứ 16 trước công nguyên, Mécène thôi bà vợ Terentia và cưới lại như vậy tới cả ngàn lần cứ mỗi khi gây gổ nhau. Đạo lý xưa dạy điều quan trọng là đàn ông phải biết giữ tư cách đàn ông: “Mình thôi, chớ đừng để bị vợ thôi”!

Trong thiên niên kỷ đầu của công nguyên, khi người Đức tiến chiếm nước Pháp, họ đem tới những tập quán mới về quan hệ ái ân nam/nữ. Vua chúa, giới quí tộc có thể lấy phụ nữ nô lệ làm vợ chánh thức. Anh em họ kết hôn nhau, đàn ông có nhiều vợ theo chế độ đa thê,… Các Linh mục phản ứng chống lại những tập quán cho là thiếu văn minh này, nhưng các ông không đủ sức thiết lập lại trật tự, đặt để lại cho mọi người nề nếp vợ chồng phải là hai người khác giới tính và chỉ một vợ một chồng mà thôi. Thời đó, phần nhiều các ông hoàng, nhà quí tộc đều có nhiều bà vợ cùng lúc và xếp theo thứ tự: vợ chánh, vợ thứ I, II, III, … và những nàng hầu. Được hiểu đó là một cách xây dựng một hệ thống gia đình và thiệt lập quyền lực đàn ông là người chủ gia đình. Vì vậy, vào thế kỷ XI, trong làng, người xa gần đều cùng họ hàng với nhau cả.

Đồng thời với hôn nhơn giữa người khác giới tính, có cả hôn nhơn giữa những người đồng tính. Theo sử gia người Mỹ, Ông John Boswell, kể lại. Hai người đàn ông, trước một vị Linh mục, long trọng tuyên thệ “thương nhau” và hai người hôn nhau đắm đuối trước bàn thờ Chúa.

Vợ chồng được định nghĩa theo Phúc âm, “Người đàn ông sẽ rời khỏi cha và mẹ để quyến luyến với người phụ nữ và từ đó hai người sẽ trở thành một thân thể”. Ở Âu châu, vào năm 1215, hôn nhơn thiết lập giữa người đàn ông và người phụ nữ và theo chế độ “một vợ một chồng”. Từ đó, hôn nhơn theo thiên chúa giáo được áp dụng cho mọi người như một giá trị qui chiếu. Hôn lễ được cử hành trước cổng nhà thờ, với sự tham dự và chứng kiến của dân làng, của Linh mục. Hôn nhơn vì tính long trọng đó nên không thể hủy bỏ dể dàng được, ngoài hai lý do: cùng huyết thống và sự bất lực của người chồng. Tình yêu xuất hiện từ hôn nhơn. Linh mục vì là người hiểu biết rành rẻ và có nhiều kinh nghiệm về đời sống xã hội nên qui định những điều kiên cử cho quan hệ vợ chồng như không được làm tình ngày thứ sáu, ngày chủ nhựt, vào mùa chay, vào chu kỳ kinh nguyệt của phụ nữ, thời gian phụ nữ cho con bú hay mang thai, …Từ đây, đời sống xã hội được hài hòa nhờ hôn nhơn và gia đình ổn định. Những tổ chức thanh niên ra đời đóng vai trò cảnh sát để theo dõi sự chung thỉ của các bà vợ và quyền lực của người chồng. Và đồng thời, những đám cưới lậu cũng bùng nổ ầm ỉ. Thủ tục rất đơn giản, chỉ diển ra không quá 5 giây, trong vựa lúa hay ở tửu điếm, bằng sự trao đổi với nhau quà tặng hay vài lời yêu đương, không cần Linh mục chủ lễ. Đôi khi người ta làm đám cưới như đi chạy giặc. Một trường hợp được lưu truyền cho tới ngày nay. Anh chàng nói với cô nàng “Này em, để cho em đừng sợ bị anh lợi dụng, trước tiên, anh để lưởi của anh vào miệng em với danh nghĩa “hôn nhơn” giữa hai ta với nhau”.

Ở Việt nam, ngày xưa có tập tục ở rể. Sau lễ hỏi, chàng trai tới nhà vợ tương lai ở và làm việc nhà không công, tức làm việc chùa, cho nhà vợ từ một năm. Sau đó mới làm lễ cưói và rước vợ về nhà của mình. Có khi gia đình bên vợ chê anh chàng bất tài hay thiếu tư cách, từ chối lễ cưới. Thế là anh chàng bèn ôm gói quần áo lặng lẻ ra về một mình. Không biết khi ở rể, đã có được mấy anh có bản lãnh quơ sốt dẻo cô vợ tương lai của mình để khi bị từ hôn không bị mất cả chì lẫn chày?

Chuyện bình thường quan hệ nam/nữ đã có từ cổ thời. Ngơài khuôn khổ gia đình, đàn ông lúc bấy giờ không ít người đã biết lui tới nhà chứa. Tất cả nơi đây đều do Nhà thờ quản lý vì Nhà thờ và Nhà nước là một và Nhà thờ lãnh đạo Nhà nước.

Vào thế kỷ XVI, Panurge, nhơn vật trong truyện của Rabelais, cứ tự hỏi “Tôi có nên cưới vợ không?”

Ông hỏi hết mọi người. Từ nhà triết học, nhà thần học, thầy thuốc, tới nhà chiêm tinh, … Ông mơ ước có được một bà vợ để vừa thỏa mản yêu đương, vừa giúp đở ông lúc bịnh hoạn, vừa có con nối dõi cho ông nhưng ông vẫn lo ngại không tránh khỏi bị cặm sừng, bị đánh đập, bị ăn cắp của cải, …

Vào thời đó, hôn nhơn theo thiên chúa giáo đang trên đà phát triển và trở thành khuôn mẫu xã hội duy nhứt. Trai gái phải gặp nhau qua chiếc nhẩn ở ngón tay.

Giáo hội Công giáo qua Cộng đồng “Ba mươi” siết qui luật hôn nhơn thêm một vòng nữa cho chặc chẻ hơn bằng cách xác định long trọng tính không thể ly hôn cho mọi cặp vợ chồng. Hôn nhơn vì đó trở thành nhiệm vụ của gia đình, của nhà thờ và của nhà nước. Với một mục đích đem lại một đời sống vợ chồng tốt đẹp!

Năm 1804, Napoléon ban hành luật xác định “người chồng có bổn phận bảo vệ vợ và người vợ có bổn phận phải vâng lời chồng”.

Và cũng từ đây, trong văn chương, người ta xem hôn nhơn là nhà tù nơi chưa có người đàn ông nào thoát ra được mà sống sót!

Ái ân trên hết

Năm 1833, ở Pháp có một “kinh thư ái ân” không biết tên tác giả, phổ biến rất rộng rải nhưng lậu, không công khai, tựa là “Nghệ thuật ái ân 40 cách” (Art de foutre en quarante manières). Độc giả đông đảo, có khi phải chuyền tay nhau đọc. Do ảnh hưởng quyển kinh thư này mà đàn ông ngoại tình trở thành một hiện tượng xã hội thật sự nghiêm trọng. Sự vi phạm luật pháp và đạo lý được hiểu như là điều kiện duy nhứt để hưởng lạc. Phụ nữ mang bầu ngoài hôn nhơn chiếm tỷ lệ kỷ lục chưa từng thấy.Tới năm 1884, một đạo luật mới ra đời bảo vệ quyền tự do cá nhơn cho rằng sự ngoại tình của một trong hai người của cặp vợ chồng là một trong ba nguyên nhơn dẩn đến ly dị. Từ đây, tính bền vửng của hôn nhơn không còn nữa.

Và nay là lần đầu tiên trong luật pháp của Pháp, với đạo luật mới này, nam nữ bình đẳng trước pháp luật. Tình yêu và ái ân cũng khởi sắc trở lại. Nam nữ yêu nhau có thể công khai hôn nhau ở miệng, điều trước giờ bị cấm ngặt.

Việc ái ân lần lần tách rời khỏi nhiệm vụ sanh con cái và sự kiểm soát của xã hội. Năm 1920, có tới 41000 trường hợp ly dị trong đó có 60% do yêu cầu của phụ nữ. Đầu năm 1968, luật cấm nam sinh viên tới phòng nữ sinh viên trong Đại học xá sau 21 giờ được hủy bỏ. Tướng De Gaulle, lúc đó đang bị sinh viên phản đối, ngao ngán mà nhận xét kỷ cương xã hội bị xé nát “Người ta cho chúng nó những ông thầy dạy học, nay chúng nó đòi những cô giáo” (On leur offre des maitres et maintenant, ils veulent des maitresses – Tiếng Maitresse có nghĩa là Cô giáo mà cũng có nghĩa là Tình nhơn). Qua tháng 5/68, tuổi trẻ “đứng lên làm lịch sử” đưa ra khẩu hiệu “Hưởng lạc không trở ngại”. Lập tức, các phong trào nữ quyền hưởng ứng theo.

Ngày nay, tình yêu, ái ân trở thành những quan hệ đa dạng và hoàn toàn tự do. Trai gái tự do cưới nhau, không phân biệt giới tính. Tự do sống chung bằng hợp đồng hai người cùng ký trong nhái mắt. Sau đó vài ngày, họ chia tay nhau. Một lần, hai lần, ba lần. Và nhiều hơn nữa …

Sử gia người Mỹ, Ông Dan Savage, phê bình hiện tượng tình yêu và ái ân xả láng ở Pháp và Âu châu như ngày nay là do một sai lầm lớn. Âu châu trước kia đã thần thánh hóa hôn nhơn. Đặt hôn nhơn dưới sự kiểm soát gắt gao của nhà thờ. Mọi quan hệ nam/nữ đều bị nhà thờ dòm ngó, phán xét. Tôn trọng sự thỉ chung, thay vì sự nảy nở, như là tiêu chuẩn chủ yếu của hôn nhơn thành công. Nhưng điều mong đợi đó, trên thực tế, đã dẩn tới thất bại thảm hại.

Ông Dan Savage, để có đời sống hôn nhơn vửng bền, muốn con người ta ngày nay hãy quay trở lại với mô hình gia đình thời xa xưa, như ở Athènes, với một vợ hay một chồng chánh thức cho quan hệ hằng ngày, và nhiều bà thứ / ông thứ, nàng hầu / ông hầu,… để thỏa mãn ái ân.

Nhà sử học thường bị ám ảnh bỡi quá khứ. Nhưng quá khứ không phải là hiện tại. Nên không biết các ông ngày nay có chịu sống với cái quá khứ của Athènes không?

Nguyễn thị Cỏ May

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Trong tháng Hai vừa qua, cái chết đau thương, lẫm liệt của nhà đối kháng người Nga Alexei Navalny trong tù đã gây sầu thảm, phẫn nộ cho toàn cộng đồng tiến bộ nhân loại. Đối với người Việt Nam tiến bộ, nỗi đau lại càng sâu thêm khi trong ngày cuối cùng của tháng Hai, ngày 29, nhà cầm quyền độc tài Hà Nội bắt đi cùng lúc hai nhà đấu tranh kiên cường...
Ít lâu nay, vấn đề “bảo vệ an ninh quốc gia” được nói nhiều ở Việt Nam, nhưng có phải vì tổ quốc lâm nguy, hay đảng muốn được bảo vệ để tồn tại?
Xuất hiện gần đây trong chiến dịch tranh cử tổng thống, Donald Trump, ứng cử viên đảng Cộng hòa, đã lên tiếng đe dọa là sẽ không bảo vệ cho các đồng minh thuộc khối NATO trong trường hợp bị Nga tấn công. Ý kiến này đã dấy lên một cuộc tranh luận sôi nổi tại châu Âu, vì có liên quan đến việc răn đe Nga và ba kịch bản chính được đề cập đến khi Donald Trump trở lại Nhà Trắng vào năm 2025 là liệu Liên Âu có nên trang bị vũ khí hạt nhân chăng, Pháp có thể tích cực tham gia không và Đức nên có tác động nào.
Tôi không biết chính xác là Văn Trí đã đặt chân đến Đà Lạt tự lúc nào nhưng cứ theo như ca từ trong nhạc phẩm Hoài Thu của ông thì Cao Nguyên Lâm Viên ngày ấy vẫn hoang vu lắm. Ngoài “núi rừng thâm xuyên”, với “lá vàng rơi đầy miên man”, cùng “bầy nai ngơ ngác” (bên “hồ thu xanh biếc”) thì dường như không còn chi khác nữa! Từ Sài Gòn, khi tôi được bố mẹ “bế” lên thành phố vắng vẻ và mù sương này (vào khoảng giữa thập niên 1950) thì Đà Lạt đã bị đô thị hóa ít nhiều. Nơi đây không còn những “bầy nai ngơ ngác” nữa. Voi, cọp, heo rừng, beo, báo, gấu, khỉ, vượn, nhím, mển, gà rừng, công, trĩ, hươu, nai, trăn, rắn, sóc, cáo, chồn… cũng đều đã biệt tăm. Người Thượng cũng ở cách xa, nơi miền sơn cước.
Vi hiến có nghĩa là “vi phạm” hay đi ngược lại những gì Hiến Pháp (HP) quy định. HP không có gì là cao siêu hay quá bí ẩn. Hiến Pháp trong bản chất chỉ là một bộ luật. Sự khác biệt chỉ là: HP là một bộ luật nền tảng hay nôm na là “luật mẹ”. Không những không cá nhân hay hữu thể pháp lý nào trong xã hội, kể cả hành pháp (tức chính phủ) được quyền vi phạm HP, mà không một luật pháp nào của lập pháp (tức quốc hội) được quyền vi phạm HP cả...
Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ tiếp tục đi theo đường mòn Chủ nghĩa đã lu mờ trong thưc tế và thất bại trong hành động tại Đại hội đảng kỳ 14 vào tháng 1 năm 2026. Khẳng định này của ông Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư đảng là bằng chứng cho tính chai lỳ, chậm tiến và lạc hậu, không phải của riêng ông mà toàn đảng...
Thứ Bảy 24/2/2024 đánh dấu hai năm kể từ khi Nga phát động cuộc chiến tranh xâm lược toàn diện nước Ukraine. Cuộc xung đột đang lâm vào tình trạng bế tắc và ngày càng tàn khốc. Nhân dịp này ông Nick Schifrin, một phát thanh viên của kênh truyền hình PBS, đã tổ chức một buổi thảo luận bàn tròn về hiện tình của cuộc chiến, nó có thể đi đến đâu và chính sách của Hoa Kỳ đối với Ukraine sẽ ra sao. Hiện diện trong buổi thảo luận có các ông Michael Kofman, John Mearsheimer và bà Rebeccah Heinrichs...
Đôi lời từ tác giả: “Sẽ có nhiều người không thích bài viết này. Họ sẽ cảm thấy bị công kích và rằng thật bất công. Phản ứng càng mạnh mẽ càng cho thấy nỗi sợ hãi về chủng tộc đã cắm rễ sâu vào nền chính trị Hoa Kỳ, và sẽ tồn tại mãi.” Tầm quan trọng của vấn đề chủng tộc trong nền chính trị của chúng ta được thể hiện rõ ràng qua chiến dịch tranh cử tổng thống hiện tại. Khẩu hiệu (slogan) đình đám nhất là từ chiến dịch tranh cử của Donald Trump: “MAGA” – Make America Great Again (Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại). Ý của slogan này là Hoa Kỳ đã từng rất vĩ đại, nhưng đã và đang đánh mất hào quang của mình.
Sau 11 năm chống Tham nhũng (2013-2024) nhưng Tham nhũng cứ trơ ra cười vào mũi Đảng là tại sao?
Thời gian gần đây, những người thương vay khóc mướn ở Việt Nam thường đem vấn đề Chủ nghĩa Xã hội và đảng có quyền một mình lãnh đạo ra hù họa dư luận. Tuy nhiên, càng vênh váo và cù nhầy bao nhiêu lại càng lâm vào thế bí. Những bài viết không trả lời được câu hỏi: Ai đã trao quyền lãnh đạo cho Đảng, và tại sao Đảng sợ Dân chủ đến thế?
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.