Hôm nay,  

Nỗi Lòng Người Đi... Cảm Nghĩ Khi Đọc Hồi Ký Hồ Tấn Phát: “Cuộc Đời & Sự Nghiệp”

30/04/201300:00:00(Xem: 5645)

Cao Đắc Vinh
Nhân ngày lịch sử 30 tháng tư khi “cái ác” chiến thắng “cái thiện”... Tôi muốn viết lại một chuyện tình bất hủ, đẹp và trong sáng từ ngày đầu tiên hai người gặp nhau đến ngày cuối vĩnh biệt.
Nói đến tình yêu là nói đến thăng trầm bể dâu và lẽ thường hợp tan của cuộc đời. Không phải cố tình, tôi lấy tựa đề “Nỗi Lòng Người Đi”, bài hát nổi tiếng thời di cư năm 54 của nhạc sĩ Anh Bằng mà đó chỉ là một sự trùng hợp. “Tôi xa Hà Nội năm lên mười tám khi vừa biết yêu...” nỗi lòng của đôi trai gái miền Bắc yêu nhau khi đất nước phân chia vì Cộng sản tiếp thu Hà Nội. Người nữ ở lại, người nam ra đi đôi bờ cách xa nhưng câu chuyện tình tôi sắp kể có nhiều phần đối nghịch dù vẫn chung hoàn cảnh chiến tranh đau thương của đất nước.
Họ xa nhau vì sau hai mươi năm chinh chiến, Cộng sản tiến chiếm Sài Gòn một ngày cuối tháng tư năm 75. Quê hương là miền Nam, họ không ở tuổi thiếu niên như hai nhân vật của nhạc sĩ Anh Bằng mà đã trưởng thành, có gia đình con cái... Họ không chia tay với mối tình đầu, bất ngờ đến rồi lạnh lùng đi... cây đàn trên vai với tâm hồn lãng mạn mà ngược lại mối tình trăm năm ấy như định mệnh an bài đã bị sẻ làm đôi! Cuộc đời từ đó như hai nhánh sông... không êm đềm chẩy nữa mà gập ghềnh sỏi đá, nông sâu không biết ở khúc quanh nào mà né tránh khi người đàn bà ra đi một mình, ôm theo vận mệnh sinh tử của đàn con và người chồng kẹt lại với “mối tình lương tâm” mà sống kiếp làm người ai cũng có... nhưng trong thực tế tiếc thay nhiều người quên ít kẻ nhớ! Khác với ca khúc ở trên, cuối cùng họ cũng gặp lại nhau... chỉ buồn sau đó, cuộc đời lại tái diễn cảnh chia phôi, nghìn trùng xa cách nghĩa là người đi và cả người ở lại đã phải trải qua hai lần nỗi lòng ly biệt.
Tôi gặp ông Hồ Tấn Phát do một sự tình cờ. Trong những cuộc hội ngộ của cựu nhân viên Điện lực Sài Gòn còn gọi là CĐV năm vừa qua, tôi được mời vì có anh em trong gia đình làm việc ở công ty khi xưa. Để ý thấy mọi người đều vây quanh một nhân vật tựa như thần tượng của họ mà cốt cách ông ta lại thân mật giản dị cư xử giống như người nhà...
Quá khứ dù qua đi nhưng kỷ niệm cũ, đẹp hay xấu, vẫn theo con người ta đến cuối đời. Cách xử thế của nhân viên cũ đối với ông làm tôi ngạc nhiên. Sau những phút trò chuyện, biết ông đã theo học Les Grandes Écoles ở Paris nên tôi đem lòng ngưỡng mộ về tài năng và đức độ. Dù mới gặp nhưng lại thấy thân quen với ông ngay từ buổi đầu và ông tặng tôi cuốn hồi ký Hồ Tấn Phát: Cuộc đời và Sự nghiệp vừa mới in xong.
Sự nghiệp của ông thì những ai sống ở Việt Nam thập niên 60 đến 70 đều biết rõ và mang ơn. Ông là Tổng giám đốc Công ty Điện lực Việt Nam đã cung cấp điện để máy móc cơ xưởng chạy ban ngày và ban đêm thắp sáng từng căn nhà từ thành thị đến thôn quê. Ông có một sự nghiệp vẻ vang mà nhiều người đã biết nên tôi không cần nhắc lại, chỉ xin tóm lược tiểu sử:
Sinh ra và lớn lên ở Chợ Đệm, một làng nhỏ thuộc tỉnh Long An cách xa thủ đô Sài Gòn 12 cây số, thuở nhỏ ông giỏi toán nên lớn lên được học bổng tiếp tục đại học bên Pháp. Tại Paris năm 54, ông đỗ kỹ sư điện École Supérieure dÉlectricité (Sup Elec) và đến năm 56, tốt nghiệp kỹ sư hàng không École Nationale de lAviation Civile (ENAC). Đó là những trường lớn, nhận vào qua kỳ thi tuyển khó khăn, giống như 8 trường Ivy League ở Mỹ. Ông lập gia đình và có con trước khi về nước, khởi sự làm việc tại nhà đèn Chợ quán. Cơ xưởng hồi ấy còn thuộc công ty tư nhân của Pháp gọi tắt là C.E.E (Compagnie des Eaux et dÉlectricité) cho đến năm 67 mới chuyển giao cho miền Nam Việt Nam và cuối cùng trở thành Công ty Điện lực Việt Nam (CĐV) mà ông Hồ Tấn Phát làm Tổng Giám Đốc cho đến ngày cuối cùng của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Trong thời gian lãnh đạo cơ quan với tầm vóc quốc gia như thế, tôi được biết ông lấy sự bình đẳng đối xử với mọi tầng lớp nhân viên, Tây cũng như Ta và cái gì đúng thì luôn luôn được tôn trọng còn nếu sai thì chỉnh đốn sửa lại bằng cả lý và tình.
Tháng tư đen năm 75, chở vợ con vào phi trường Tân Sơn Nhất để chờ di tản nhưng riêng ông lại trở về nhiệm sở vì nghĩ đến nhân viên điện lực mà không nỡ lòng bỏ đi. Ông ví mình như con chim đầu đàn, chẳng may gặp cơn giông bão mà tìm nơi trú ẩn một mình để cả đàn phía sau phải dập vùi trong mưa bão, lòng dạ nào yên, nghĩ sao cho ổn!
Như một vị tướng không rời quân sĩ khi thất thế, lương tâm trượng phu ấy đã bắt ông trả bằng những năm tù cải tạo ra đến tận đất Bắc xa xôi ở chốn rừng thiêng nước độc và cũng từ lúc đó gia đình ông sống trong cảnh ly tan. Khi mẹ già vào thăm nuôi, nhìn ông và miệng lẩm bẩm nói một mình: “Không hiểu sao con tôi lại đến nông nỗi này?” thì nước mắt ông tuôn rơi... nghẹn ngào vì chính ông cũng không biết mình có tội gì với quê hương để mẹ già phải lầm than cơ cực, băng rừng vào gặp đứa con đói ăn tiều tụy trong lao tù? Thật hổ thẹn cho chế độ Cộng sản mà cả thế giới đã ruồng bỏ! Câu hỏi vẫn còn đó nhưng chưa dứt khoát được trả lời từ những người có trách nhiệm dù chỉ bằng một lời xin lỗi ngắn ngủi...
Khi về nước năm 56, ngoài nhiệm vụ ở nhà đèn Chợ Quán, ông còn dậy học tại Trường Cao Đẳng Điện Học Phú Thọ nên đa số nhân viên gọi ông bằng Thầy. Ông năm nay đã hơn 85, mặc dù cao tuổi nhưng tính tình vẫn trẻ trung nên tôi cũng xin phép được gọi Thầy xưng em để giữ không khí thân mật thầy trò mà nhóm Điện lực đã có với ông từ bao lâu nay. Thầy Phát có khuôn mặt điển trai mà bạn bè thường ví von là tài tử Paul Newman của Việt Nam. Thầy rất ăn ảnh vì nét khôi ngô tuấn tú và nụ cười lúc nào cũng nở trên môi. Người đàn ông tài hoa ấy sống giữa kinh đô ánh sáng đã không bị tơ vương bởi những bông hồng tóc vàng mắt xanh lộng lẫy, nhan nhản trên đường phố Paris mà lại trân quý mối tình khi vừa biết yêu với người em gái nơi quê nhà trước ngày lên đường du học.
Tôi muốn nói đến cô Dân hay cô Một vì cô sanh ra thứ mười một trong gia đình. Cô Dân là người đàn bà lý tưởng đứng sau người đàn ông tài giỏi vì thế đã chiếm trọn trái tim Thầy từ lúc sơ giao đến lúc cô vĩnh biệt đi về bên kia thế giới. Mối tình Thầy Cô trọn vẹn tựa như Roméo và Juliette hay Love Story của Erich Segal với câu nói bất hủ: “Love means never having to say youre sorry” ý nói khi đã yêu chân tình, không ai muốn bất cứ điều gì xẩy ra làm đau lòng người mình yêu...
Cô Dân có người chị lấy anh của thầy Phát nên họ gặp và yêu nhau nhanh chóng trong tình gia đình ngắn gọn. Năm 1947, học sinh trường Gia Long nhưng vì yếu môn toán nên Thầy đến kèm rồi giản dị để lại con tim... cô đã giữ say mê cho đến lúc từ giã cõi đời. Tôi không có may mắn gặp cô Dân một lần nào nhưng nghe kể cô hiền lành chất phác mang bản tính cố hữu của người miền Nam hai mùa mưa nắng. Tình cảm mặn nồng nên cô dễ hòa đồng với mọi người. Dù là vợ của viên chức chỉ huy cao cấp nhưng phong cách cư xử của cô đối với nhân viên lúc nào cũng trong tình thân mỗi khi có dịp gặp gỡ. Cô thường ca hát giúp vui mỗi khi gia đình Điện lực có hội hè nên mọi người đều mến mộ để rồi thương tiếc ngày cuối cùng vĩnh biệt cô.
Sống với Thầy được 4 mặt con, hai trai và hai gái, hai người con lớn học ở Hawai khi Sài Gòn thất thủ và cô ra đi với hai con nhỏ, lần đầu tiên bơ vơ giữa chợ đời... Nhà cửa, tiền bạc và cả người chồng bao lâu nay là cột trụ của gia đình, tất cả đã ở lại trên quê hương một ngày buồn cuối tháng tư. Tình yêu nào cũng phải trải qua gian nan thử thách và cô đã sống với số phần của mình để người đời hiểu trọn nghĩa câu: “Thức lâu mới biết đêm dài, ở lâu mới biết là người có nhân...” . Tấm lòng sắt son với gia đình và tình nghĩa vợ chồng thủy chung của cô đã do đó được tô đậm bằng những hình ảnh trong sáng.
Cô chọn nước Pháp làm nơi dung thân chỉ vì tòa lãnh sự Pháp ở Việt Nam còn hoạt động lúc đó mặc dù người thân đã khuyên cô nên đến Mỹ sẽ được hưởng nhiều quyền lợi đặc biệt dành cho dân tị nạn. Tôi hiểu ngay khi cô kể lại với Thầy tại sao cô đã khước từ: “Đó là ý kiến rất thực tế nhưng em nghĩ tìm kiếm tin tức của Phát là quan trọng hơn cả! Em không thể sống mà không có tin tức của Phát được...” Lời nói ngay thẳng, không văn hoa cầu kỳ mà đã là đàn ông, ai cũng muốn được nghe vì lời tâm sự ấy mang theo thông điệp của lời tỏ tình cao quý nhất mà người vợ có thể dành cho người chồng: “Em chỉ cần anh thôi! hay nói khác đi anh là lẽ sống của đời em...”
Trong khi thầy Phát cùng đồng bào miền Nam đi cải tạo để từ một người tốt trở thành người xấu theo chính sách Cộng Sản (?) thì tin tức cũng không được trao đổi. Một lá thư cô đã viết trong nước mắt khi đối diện cuộc đời lạc lõng nơi xứ người, tình cờ 17 năm sau mới đến tay Thầy vì ông Nakamura, người bạn Nhật nhận lãnh giao bức thư nhưng đã không thể chuyển vì hoàn cảnh khó khăn ở Việt Nam lúc trước. Đọc lá thư tình, cũng với lời diễn tả xót xa chân thực: “Cưng ơi! Em chỉ biết khóc và khóc cho thật nhiều để lòng vơi bớt nỗi khổ đau. Em ráng có đủ can đảm và nghị lực để cố sống nuôi con và chờ mình đây...” Tình đã già nhưng thời gian không làm phai nhạt lòng yêu thương để hai bóng hình, tóc đã bạc mầu, ôm nhau trong một ngày mưa gió rất bình thường ở tiểu bang Oregon nhưng lần này câu thơ của Verlaine tự thấy sao đúng với tâm trạng của Thầy... “Il pleut dans mon coeur comme il pleut sur la ville” (mưa trong tim tôi như mưa về thành phố) chỉ khác là tiếng khóc hôm nay là tiếng lòng hạnh phúc cho vơi đi dư âm những ngày cũ u sầu!

Một lần nữa, Thầy lại khóc để cuốn hồi ký ướt đẫm những trang giấy! Tình cờ thấy ướt trên mặt, quẹt ngang tôi mới biết mình vừa xúc động bởi 3 chữ cuối cùng “chờ mình đây...” trong bức tâm thư. Ôi tình yêu! vật quý muôn mầu, nước mắt rơi vì thấy người yêu bị lâm vào cảnh đoạn trường còn bao nhiêu đau khổ của riêng mình thì nuốt tận sâu đáy lòng, không cảm nhận nữa dù mong manh vài giây phút...
Tình yêu vợ chồng chỉ dành cho một người, còn tình đồng đội bạn bè thì gom lại từ nhiều người, dù khác nhau trong định nghĩa nhưng đối với người lãnh đạo có lương tâm vẫn “bên tám lạng người nửa cân” để hoàn cảnh trở thành éo le, khó nhìn thấy trước những hậu quả trong mọi quyết định cho là chủ quan của mình.
Từ phi trường Tân Sơn Nhất, Thầy trở về sống chung với nhân viên Điện lực trong giờ phút điêu linh của thời cuộc và cũng ngay giờ phút đó, cô Dân biết mình đã chấp nhận cảnh “tử biệt sinh ly” với chồng và “Nỗi lòng Người Đi” lần thứ nhất cũng tan nát từ đây... Bao nhiêu cay đắng vì cuộc sống phức tạp nơi xứ lạ quê người mà cô phải một mình cáng đáng để đổi lấy tương lai các con và ngày mai xum họp với chồng dù xã hội đang cư ngụ và chính thể ở quê nhà có muôn vàn khó khăn. Trong tim cô luôn ấp ủ niềm hy vọng mãnh liệt nên đã vượt lên được mọi khổ cực cả về vật chất lẫn tinh thần.
Từ một mệnh phụ phu nhân của “Chef des Centrales” được đặc ân sống tại biệt thự chức vụ số 383 Bến Chương Dương Sài Gòn (tại đây có sân tennis, khu vườn rộng trồng hoa kiểng và cây ăn trái, đường lái xe vào nhà và có cả người giúp việc trong mọi công tác từ bồi bếp, tài xế đến làm vườn) thế rồi một sớm một chiều, cuộc đời cô đã trở thành người thợ nấu ăn trong một quán cơm nhỏ ở Savigny sur Orge vùng ngoại ô Paris. Quán này là một căn phố lầu, cô ở lầu trên, dưới là tiệm ăn. Công việc đa đoan, làm việc trong bếp trên 12 tiếng mỗi ngày mục đích để hàng tháng có thu nhập nuôi con đi học. Song song với việc sinh sống của gia đình, cô lưu tâm vào việc giúp Thầy có hộ chiếu Pháp & Việt để đoàn tụ với vợ và các con khi đã mãn hạn tù Cộng sản. Xin vào quốc tịch Pháp theo đề nghị của vị dân biểu Thượng viện DOrnano, một năm sau cô đã can thiệp từ phương xa cho chồng qua những cơ quan công quyền như Liên Hiệp Cao Ủy phủ Tỵ Nạn, Toà Đại Sứ Pháp tại Hà Nội, Tổng Lãnh Sự Pháp tại Sài Gòn, Bộ Ngoại Giao Pháp, Quốc Hội Pháp và cả văn phòng Tổng Thống Valéry Giscard dEstaing để thầy Phát cùng với mẹ già đến phi trường Charles de Gaulle vào một buổi trưa cuối tháng 10 năm 1979. Bao nhiêu gian nan thật đáng khâm phục!
Người đàn ông khoa bảng từ những trường đại học lớn của nước Pháp năm xưa, ngày nay “thúc thủ” sau những năm tháng giam cầm khổ sai trong ngục tù Cộng sản. Giữa kinh đô hoa lệ dù chàng đã thân quen từ dĩ vãng vàng son nhưng vẫn phải sống lặng yên bên cạnh người vợ đảm đang... Nàng chở chồng con những ngày chủ nhật đi Euro Marché, siêu thị lớn ở vùng ngoại ô để mua bán và ăn trưa ở tiệm bình dân “fast food” nhưng lại là hạnh phúc lớn lao của gia đình khi đã được sum vầy bên nhau và hằng năm mỗi khi quán cơm đóng cửa vào tháng 7, cô Dân lái chiếc xe “station wagon” chở chồng và ba đứa con đi nghỉ hè ở Côte dAzur miền Nam nước Pháp. Thời thế tạo nữ kiệt, cô Dân trở thành đầu tầu và hăng hái trong mọi hoạt động để không khí gia đình trở lại bình thường. Ước mong đoàn viên đã trở thành hiện thực để rồi những năm sau, Thầy tìm lại được niềm tin vào khả năng của mình và nhận nhiệm vụ mới tại Ngân Hàng Thế Giới World Bank hay kinh doanh cùng với gia đình ở Beaverton thuộc tiểu bang Oregon.
Ngày vui qua mau, sau 25 năm gia đình sum họp ở Mỹ, các con đã trưởng thành và có chồng vợ. Thầy Cô yên vui trong cuộc sống hưu trí với đàn cháu nội ngoại, thỉnh thoảng háo hức đi du lịch thăm viếng bạn bè xa gần nhất là chuẩn bị kỳ đại hội họp mặt Điện lực Paris dự trù vào tháng 9 năm 2004 tổ chức tại Foyer International dAcceuil thuộc Paris 14ème nơi mà 51 năm trước, Thầy Cô đã làm lễ cưới cũng ở quận này. Thầy cũng định trong chuyến đi Pháp sắp tới, hai người sẽ sống lại những năm đầu tiên yêu nhau khi cả hai còn là sinh viên. Trở lại nơi hẹn hò quen thuộc như Bois de Meudon, Bois de Fontainebleau hay picnic ở Bois de Rambouillet, bao nhiêu kỷ niệm cũ sẽ hiện về để hai ngưòi yêu nhau dù tuổi đã cao nhưng tình không già, sẽ thêm một lần âu yếm giữa trời Âu như những năm xưa còn trẻ.
Tiếc thay, trong ánh lửa hồng của tình yêu hạnh phúc đã có sẵn tro tàn lạnh lẽo mang mầu đen tang tóc của biệt ly, cô Dân đã bất ngờ ra đi một tháng trước ngày đại hội Điện lực Paris. Thế là hẹn hò khép lại từ đây! “Nỗi Lòng Người Đi” lần thứ hai dù êm đềm, không lời trăn trối nhưng đã để lại bao thương tiếc trong lòng người ở lại và tất cả bạn bè thân thuộc gần xa.
Cô Dân được mai táng trên đồi Skyline Memorial Gardens tại thành phố Portland vào một buổi chiều mùa thu cuối tuần có nắng vàng ấm áp, ngày thứ bẩy mùng 7 tháng 8 năm 2004 để rồi từ nay, trên ngọn đồi khoảng khoát, những người lai vãng nơi đây sẽ thường gặp một ông già đến nằm bên cạnh ngôi mộ nói chuyện nhưng chỉ một mình với hư không như chưa bao giờ xa cách người vợ hiền. Hãy đọc lời Thầy viết cho cô Dân mà giây phút cuối cùng dù đã điểm nhưng họ vẫn là tình nhân...”Cưng ơi! Cưng ra đi anh tưởng như nhà tan đất lở. Tất cả gia đình đều khóc. Bạn bè đều thương mến, đều nhớ tiếng nói, nụ cười và tiếng hát của cưng. Anh cảm ơn cưng đã hy sinh trên 50 năm cho gia đình chúng mình đến ngày hôm nay. Thôi gia đình và các bạn xin vĩnh biệt cưng từ nay. Phần anh, trong tương lai gần sẽ trở lại đây để nằm bên cạnh cưng, chúng mình sẽ được gần nhau mãi mãi... Phát đây! Cưng của cưng đây!”.
Theo tâm lý, tôi hiểu là đa số đàn ông đều mơ tưởng có 3 hình ảnh người đàn bà cùng một lúc trong cuộc đời: Vợ để giao phó nhà cửa tiền bạc và sanh con đẻ cái còn gọi nôm na là “cơm”, tình nhân để hẹn hò yêu đương vụng trộm gọi là “phở” và người đẹp tri kỷ tâm đầu ý hợp để thổ lộ sự đời có thể coi như “món nhậu”. Vợ sống hàng ngày bên cạnh nên có sự ràng buộc, người tình xen vào giữa bù đắp tình cảm thiếu thốn từ vợ và người đẹp tri kỷ để nhỏ to tâm tình những lúc cần thiết như bạn bè.
Đối với thầy Phát, dựa theo cuốn hồi ký tôi vừa đọc, cô Dân đã mang hình ảnh cả ba nhân vật nên mối tình Thầy Cô vừa kể thật lý tưởng. Dù ở hoàn cảnh nào, hạnh phúc hay thương đau cũng đều có nhau, hiển nhiên sẽ không dễ tìm thấy trong cuộc sống sô bồ ngày nay. Xin để Paul Newman của Hollywood trả lời giùm Thầy nếu có ai thắc mắc về sự thủy chung qua câu trích dẫn: “Why fool around with hamburger when you have steak at home?” và hiểu theo nghĩa bóng, cô Dân quả là người đàn bà tuyệt vời để tình yêu cô lưu lại trên thế gian thành đóa hoa bất tử.
Để kết thúc câu chuyện tình chung thủy vừa kể, e ấp ít nhiều chất thơ lãng mạn và thương tiếc một điều là cuộc đời đã chia cách hai người đôi ngả quá sớm, tôi xin viết lại bài thơ “Les Feuilles mortes” của Jacques Prevert với bản tạm dịch để tặng Thầy Cô và cùng tưởng nhớ đến những ngày còn trẻ yêu nhau tuy xa lắm rồi nhưng kỷ niệm và hình bóng thì mãi mãi sẽ không bao giờ phai...

Les feuilles mortes
Những chiếc lá uá
Oh, je voudrais tant que tu te souviennes
Ôi, anh mong sao em nhớ lại
Des jours heureux où nous étions amis
Những ngày hạnh phúc bên nhau
En ce temps-là, la vie était plus belle
Thuở ấy cuộc đời thật đẹp
Et le soleil plus brulant quaujourdhui
Và mặt trời rực rỡ hơn hôm nay
Les feuilles mortes se ramassent à la pelle
Những chiếc lá vàng chất từng đống
Tu vois, je nai pas oublié
Em thấy không, anh vẫn chưa quên
Les feuilles mortes se ramassent à la pelle
Những chiếc lá vàng chất từng đống
Les souvenirs et les regrets aussi
Lẫn với cả kỷ niệm và nuối tiếc
Et le vent du Nord les emporte
Bị gió phương Bắc đến cuốn đi
Dans la nuit froide de loubli
Trong một đêm lạnh của lãng quên
Tu vois, je nai pas oublié
Em thấy không, anh vẫn chưa quên
La chanson que tu me chantais
Bài ca mà em hát tặng anh
Cest une chanson qui nous ressemble
Tình khúc giống chuyện chúng mình
Toi, tu maimais et je taimais
Em yêu anh và anh yêu em
Et nous vivions tous deux ensemble
Rồi chúng ta sống bên nhau
Toi qui maimais, moi qui taimais
Em yêu anh, anh yêu em
Mais la vie separe ceux qui saiment
Nhưng cuộc đời luôn chia cách những kẻ yêu nhau
Tout doucement, sans faire de bruit
Nhẹ nhàng trong tĩnh lặng
Et la mer efface sur le sable
Và biển sẽ sóa mờ trên cát
Les pas des amants désunis
Dấu chân bao cặp tình nhân dang dở
Les feuilles mortes se ramassent à la pelle
Những chiếc lá vàng chất từng đống
Les souvenirs et les regrets aussi
Lẫn cả kỷ niệm và nuối tiếc
Mais mon amour silencieux et fidèle
Người anh yêu thầm lặng thủy chung
Sourit toujours et remercie la vie
Luôn mỉm cười cảm ơn cuộc đời
Je taimais tant, tu était si jolie
Anh yêu em vô cùng, người đẹp tuyệt vời
Comment veux-tu que je toublie?
Làm sao quên em được?
En ce temps-là, la vie était plus belle
Thuở ấy cuộc đời thật đẹp
Et le soleil plus brulant quaujourdhui
Và mặt trời rực rỡ hơn hôm nay
Tu étais ma plus douce amie
Em yêu dấu dịu hiền
Mais je nai que faire des regrets
Thế mà anh đã cho bao muộn phiền
Et la chanson que tu chantais
Và ca khúc em đã hát
Toujours, toujours je lentendrai!
Mãi mãi anh còn nghe văng vẳng đâu đây!
Cao Đắc Vinh

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.