Mẹ tôi gốc Hà-Nội còn Bố là người Nam-Định; di-cư 1954 vào Nam. Gần chục năm sau tôi được sinh ra ở nhà thương “Hà-Đông-Hà” vùng Tân-Định, thành-phố Saigon. Là một trong những thuyền nhân tỵ-nạn sau biến cố 1975; lấy quốc-tịch Úc rồi sang Hoa-Kỳ định-cư từ 1991 đến nay; cả trăm lần về Việt-Nam làm phim tài-liệu và đi giúp người nghèo khắp ba miền đất nước: Bắc, Trung & Nam.
Hình ảnh quyến-rũ và ghi đậm nhất trong tôi lại chính là xứ sở miền Trung trầm mặc u-hoài có kinh-đô Huế với giòng sông Hương và núi Ngự-Bình cùng rất nhiều đền đài lăng tẩm.
Thành phố Huế nằm về phía Bắc đèo Hải-Vân, cách Đà-Nẵng 112 km, xa biển Thuận-An 14 km, từ phi-trường Phú-Bài đến Huế độ 14 km và cách Cảng nước sâu Chân-Mây 50 km. Phía Bắc và Tây giáp thị-xã Hương-Trà, Nam giáp Hương-Thủy, Đông cùng giáp Hương-Thủy và huyện Phú-Vang.
Qua nhiều tài-liệu sưu-tầm, tôi được biết rằng: Vùng đất xây-dựng nên kinh-thành Huế nguyên là một địa-hình được sắp đặt lại bởi công sức lao-động của hàng vạn dân binh. Dưới thời vua Gia-Long, người ta điều-chỉnh lại "vương đảo” Phú-Xuân, lấp giòng Kim-Long cũ, đào mới một loạt các sông Ngự-Hà, Đông-Ba, An-Hòa, Bạch-Yến để tạo ra một thế đất cân đối bên Hương giang ngày nay. Đối diện với tiền-án núi Ngự, hai bên có Cồn Hến Tả Thanh-Long (con Rồng xanh bên trái) và cồn Giã-Viên Hữu Bạch-Hổ (con Cọp trắng bên phải) trong thế hài-hòa rất tự-nhiên; đến nỗi ít người nhận ra xưa kia là cả một quá trình gian-khổ xẻ đất, lấp sông của con người.
Non xanh nước biếc, điện ngọc đền rồng
Tháp bảy tầng, miếu Thánh, chùa Ông
Chuông khua Diệu-Đế, trống rung Tam-Toà
Cầu Tràng-Tiền mười hai nhịp bắc qua
Tả Thanh-long, hữu Bạch-Hổ đợi khách âu ca thái-bình.” (Ca Dao)
Trung-tâm Huế có Thành nội và Đại nội:
Đại nội: với Hoàng-Thành, Tử-Cấm-Thành và hàng trăm công-trình kiến-trúc tinh-xảo, sơn son thiếp vàng, bố-trí cân-xứng thể-hiện nghiêm-ngặt trật-tự và uy-thế chốn cung-đình.
Thành nội: có Kỳ-Đài vững-chãi, uy-nghi, gồm 10 cổng đối xứng, hệ-thống các dinh-thự như Lục-Bộ, Cơ-Mật-Viện, Quốc-Tử-Giám, Tàng-Thư-Lâu...Phản ánh được bộ mặt sinh-hoạt chính-trị, văn-hóa chốn kinh-kỳ của một thời oai-phong lẫm-liệt. Nơi đây cũng là chứng-tích ghi dấu sự có mặt của nhiều thế-hệ danh-nhân đất nước ta như: Nguyễn-Du, Nguyễn-Công-Trứ, Cao-Bá-Quát, Bà Huyện Thanh-Quan, Phan-Thanh-Giản, Nguyễn-Tri-Phương, Hoàng-Diệu, Tôn-Thất-Thuyết, Phan-Bội-Châu, Phan-Chu-Trinh…
Phong cách kiến-trúc tinh-tế của cung-đình Huế còn thể-hiện ở một số lăng tẩm nằm ẩn mình trong vùng đồi núi ven hai bờ sông Hương thuộc phía Tây-Nam kinh-thành. Các lăng vua triều Nguyễn khá bề-thế theo hệ-thống sân chầu; tẩm điện, bi-đình, bảo-thành; đồng thời lại vận-dụng hình-thái xây-dựng như cung điện, có cả hồ sen, lối dạo, tùng-viện, thủy-tạ, đình-quán; đôi khi còn thêm nhà đọc sách, nhà hát, trường bắn của vua như lăng Tự-Đức.
Mỗi lăng vua là một phong-cách kiến-trúc riêng, thể-hiện một phần những yếu-tố triết-lý, tâm- linh và giá-trị thẩm-mỹ cá-biệt; không gợi lên cảm xúc đau buồn thương tâm về cái chết, ngược lại nơi đây là một chốn thanh-nhã để du khách tham-quan, ngắm nhìn và suy-tuởng.
Gắn với kinh-thành, cung-điện, lăng-tẩm còn có các đền miếu, Đàn Nam-Giao, Đàn Xã-Tắc, điện Hòn Chén, chùa Thiên-Mụ, chùa Túy-Vân và rất nhiều danh-lam cảnh tự ở kinh kỳ…
“Người xứ Huế trang nghiêm và thầm lặng
Thường hay sầu giữa lúc thế nhân vui
Tâm sự nhiều mà ít hé trên môi
Thanh lịch thay bạn văn nhân xứ Huế!”
(trích thơ của Thi-Sĩ Bạch-Lan)
Lần này về thăm Huế, phòng trọ chúng tôi ở ngay bên giòng Hương giang, nhìn sang bên trái thấy cầu Trường-Tiền, đối diện là cồn Hến, thỉnh-thoảng những bóng dáng con thuyền thơ mộng lướt nhè nhẹ, êm-ái, lặng-lẽ trên sông:
“Giòng nước Hương-Giang chảy lặng-lờ
Ngàn thông núi Ngự đứng như mơ
Gió cầu nghiêng áo nàng Tôn-Nữ
Quai lỏng nghiêng vành chiếc nón thơ” (Ca-Dao).
Một buổi sáng loanh-quanh phố-phường, tình cờ nhìn thấy con đường mang tên Trịnh-Công-Sơn. À! Thì ra Huế mộng, Huế mơ là quê-hương của cố nhạc-sĩ này; nơi mà bản nhạc “Diễm-Xưa” ra đời; theo như Hoàng-Tá-Thích (em rể TCS) đã kể rằng:
“...Ngày ngày người con gái mang tên Diễm trong chiếc áo lụa trắng của trường Đồng-Khánh, vẫn thường đi ngang, băng qua cầu, rẽ tay mặt về nhà. Hình ảnh nàng thùy mị mang nét kín cổng cao tường rất cổ điển đó đã làm cho anh không ngày nào là không nhìn xuống đường chờ đợi: Lụa áo em qua phủ mặt đường
Gót nhỏ xanh xao tựa khói sương.
Diễm mang đến cho anh một mối tình nhẹ nhàng và lãng mạn như hai chữ Diễm xưa. Có hôm thức dậy muộn, nhìn thấy bên cửa sổ cài một nhành dạ lý hương, anh biết người đẹp đã đi qua nhà mình. Và mỗi lần thức dậy anh đều mong nhìn thấy cành hoa cài trên cửa: "Chiều nay còn mưa, sao em không lại, nhớ mãi trong cơn đau vùi, làm sao có nhau, hằn lên nỗi đau, bước chân em xin về mau…"
Chúng tôi được dịp ghé đến “Royal Park Restaurant”; một nhà hàng tọa-lạc trên thôn Vỹ-Dạ với lối kiến-trúc cổ-điển, có cung lầu và vườn thượng-uyển cùng những bức tượng quan-quân u hoài trầm mặc; tôi và phu-quân được khoác Long Bào của Vua và Hoàng-Hậu như một thời Phong-Kiến xưa, thưởng-thức các món Phượng-Hoàng, Long-Quân khai-vị, Nem-Công-Chả-Phụng tuyệt-hảo và thích nhất khi xem trình diễn “nhã nhạc cung-đình” trong một không-gian rất Huế, rất hoàng-triều. Đúng như ý bài thơ của Đinh-Thu đã giới-thiệu về nơi chốn này:
“Đến đây trông bóng người xưa
Cung ngà điện ngọc nắng mưa một thời
Tìm riêng mình phút thảnh thơi
Quên đi hiện tại nghiệp đời mênh mang
Dìu hồn vào cõi mơ màng
Lắng trong quá khứ son vàng từ tâm”
(Link: http://www.royalpark.com.vn/Home )
Cảm-ơn Huế cho một lần trở lại rất trữ tình. đáng ghi nhớ, đáng mến, đáng yêu. Xin viết lại bài ca-dao dưới đây để gửi tặng phu-quân tôi và cho tất-cả những đôi uyên-ương của Huế chan hòa yêu thương & ngàn đời thơ mộng:
“Khi nào cạn nước Đồng-Nai
Nát chùa Thiên-Mụ mới sai lời nguyền!
Tay bưng dĩa muối chấm gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng bỏ nhau!
Núi Ngự-Bình trước tròn sau méo
Sông An-Cựu nắng đục mưa trong,
Đôi ta nguyện kết chữ đồng
Đá mòn sông cạn mà lòng thủy-chung!
Dãy dọc tòa ngang, giàu sang có số
Kim-Long, Nam-Phổ, nước đổ về Sình
Hai đứa mình gá nghĩa ba sinh,
Dẫu có mần răng đi nữa, hai đứa mình không thể bỏ nhau
Đôi ta kết nghĩa vợ chồng
Đá mòn, sông cạn mà lòng thủy-chung!” (Ca Dao)
www.diamondbichngoc.com
Hình ảnh quyến-rũ và ghi đậm nhất trong tôi lại chính là xứ sở miền Trung trầm mặc u-hoài có kinh-đô Huế với giòng sông Hương và núi Ngự-Bình cùng rất nhiều đền đài lăng tẩm.
Thành phố Huế nằm về phía Bắc đèo Hải-Vân, cách Đà-Nẵng 112 km, xa biển Thuận-An 14 km, từ phi-trường Phú-Bài đến Huế độ 14 km và cách Cảng nước sâu Chân-Mây 50 km. Phía Bắc và Tây giáp thị-xã Hương-Trà, Nam giáp Hương-Thủy, Đông cùng giáp Hương-Thủy và huyện Phú-Vang.
Qua nhiều tài-liệu sưu-tầm, tôi được biết rằng: Vùng đất xây-dựng nên kinh-thành Huế nguyên là một địa-hình được sắp đặt lại bởi công sức lao-động của hàng vạn dân binh. Dưới thời vua Gia-Long, người ta điều-chỉnh lại "vương đảo” Phú-Xuân, lấp giòng Kim-Long cũ, đào mới một loạt các sông Ngự-Hà, Đông-Ba, An-Hòa, Bạch-Yến để tạo ra một thế đất cân đối bên Hương giang ngày nay. Đối diện với tiền-án núi Ngự, hai bên có Cồn Hến Tả Thanh-Long (con Rồng xanh bên trái) và cồn Giã-Viên Hữu Bạch-Hổ (con Cọp trắng bên phải) trong thế hài-hòa rất tự-nhiên; đến nỗi ít người nhận ra xưa kia là cả một quá trình gian-khổ xẻ đất, lấp sông của con người.
Diamond Bích Ngọc ở Thành Nội Huế; đường mang tên Trịnh Công Sơn.
“Đất Thần kinh trai hiền gái lịchNon xanh nước biếc, điện ngọc đền rồng
Tháp bảy tầng, miếu Thánh, chùa Ông
Chuông khua Diệu-Đế, trống rung Tam-Toà
Cầu Tràng-Tiền mười hai nhịp bắc qua
Tả Thanh-long, hữu Bạch-Hổ đợi khách âu ca thái-bình.” (Ca Dao)
Trung-tâm Huế có Thành nội và Đại nội:
Đại nội: với Hoàng-Thành, Tử-Cấm-Thành và hàng trăm công-trình kiến-trúc tinh-xảo, sơn son thiếp vàng, bố-trí cân-xứng thể-hiện nghiêm-ngặt trật-tự và uy-thế chốn cung-đình.
Thành nội: có Kỳ-Đài vững-chãi, uy-nghi, gồm 10 cổng đối xứng, hệ-thống các dinh-thự như Lục-Bộ, Cơ-Mật-Viện, Quốc-Tử-Giám, Tàng-Thư-Lâu...Phản ánh được bộ mặt sinh-hoạt chính-trị, văn-hóa chốn kinh-kỳ của một thời oai-phong lẫm-liệt. Nơi đây cũng là chứng-tích ghi dấu sự có mặt của nhiều thế-hệ danh-nhân đất nước ta như: Nguyễn-Du, Nguyễn-Công-Trứ, Cao-Bá-Quát, Bà Huyện Thanh-Quan, Phan-Thanh-Giản, Nguyễn-Tri-Phương, Hoàng-Diệu, Tôn-Thất-Thuyết, Phan-Bội-Châu, Phan-Chu-Trinh…
Phong cách kiến-trúc tinh-tế của cung-đình Huế còn thể-hiện ở một số lăng tẩm nằm ẩn mình trong vùng đồi núi ven hai bờ sông Hương thuộc phía Tây-Nam kinh-thành. Các lăng vua triều Nguyễn khá bề-thế theo hệ-thống sân chầu; tẩm điện, bi-đình, bảo-thành; đồng thời lại vận-dụng hình-thái xây-dựng như cung điện, có cả hồ sen, lối dạo, tùng-viện, thủy-tạ, đình-quán; đôi khi còn thêm nhà đọc sách, nhà hát, trường bắn của vua như lăng Tự-Đức.
Mỗi lăng vua là một phong-cách kiến-trúc riêng, thể-hiện một phần những yếu-tố triết-lý, tâm- linh và giá-trị thẩm-mỹ cá-biệt; không gợi lên cảm xúc đau buồn thương tâm về cái chết, ngược lại nơi đây là một chốn thanh-nhã để du khách tham-quan, ngắm nhìn và suy-tuởng.
Gắn với kinh-thành, cung-điện, lăng-tẩm còn có các đền miếu, Đàn Nam-Giao, Đàn Xã-Tắc, điện Hòn Chén, chùa Thiên-Mụ, chùa Túy-Vân và rất nhiều danh-lam cảnh tự ở kinh kỳ…
Chàng và nàng trong bộ triều phục Hoàng đế và Hoàng hậu.
Nằm giữa những vùng dân cư có nhiều phủ đệ, đình miếu, nhà vườn nên người xứ Huế nhiều đời gắn bó với mảnh đất cố-đô được thấm nhuần giá-trị truyền-thống lễ-nghi, vì vậy họ còn lưu-giữ khá đậm nét những tính-cách, phong-tục, tín-ngưỡng một thời của vùng đô-thị cổ Việt-Nam cách đây nhiều thế kỷ:“Người xứ Huế trang nghiêm và thầm lặng
Thường hay sầu giữa lúc thế nhân vui
Tâm sự nhiều mà ít hé trên môi
Thanh lịch thay bạn văn nhân xứ Huế!”
(trích thơ của Thi-Sĩ Bạch-Lan)
Lần này về thăm Huế, phòng trọ chúng tôi ở ngay bên giòng Hương giang, nhìn sang bên trái thấy cầu Trường-Tiền, đối diện là cồn Hến, thỉnh-thoảng những bóng dáng con thuyền thơ mộng lướt nhè nhẹ, êm-ái, lặng-lẽ trên sông:
“Giòng nước Hương-Giang chảy lặng-lờ
Ngàn thông núi Ngự đứng như mơ
Gió cầu nghiêng áo nàng Tôn-Nữ
Quai lỏng nghiêng vành chiếc nón thơ” (Ca-Dao).
Một buổi sáng loanh-quanh phố-phường, tình cờ nhìn thấy con đường mang tên Trịnh-Công-Sơn. À! Thì ra Huế mộng, Huế mơ là quê-hương của cố nhạc-sĩ này; nơi mà bản nhạc “Diễm-Xưa” ra đời; theo như Hoàng-Tá-Thích (em rể TCS) đã kể rằng:
“...Ngày ngày người con gái mang tên Diễm trong chiếc áo lụa trắng của trường Đồng-Khánh, vẫn thường đi ngang, băng qua cầu, rẽ tay mặt về nhà. Hình ảnh nàng thùy mị mang nét kín cổng cao tường rất cổ điển đó đã làm cho anh không ngày nào là không nhìn xuống đường chờ đợi: Lụa áo em qua phủ mặt đường
Gót nhỏ xanh xao tựa khói sương.
Diễm mang đến cho anh một mối tình nhẹ nhàng và lãng mạn như hai chữ Diễm xưa. Có hôm thức dậy muộn, nhìn thấy bên cửa sổ cài một nhành dạ lý hương, anh biết người đẹp đã đi qua nhà mình. Và mỗi lần thức dậy anh đều mong nhìn thấy cành hoa cài trên cửa: "Chiều nay còn mưa, sao em không lại, nhớ mãi trong cơn đau vùi, làm sao có nhau, hằn lên nỗi đau, bước chân em xin về mau…"
Chúng tôi được dịp ghé đến “Royal Park Restaurant”; một nhà hàng tọa-lạc trên thôn Vỹ-Dạ với lối kiến-trúc cổ-điển, có cung lầu và vườn thượng-uyển cùng những bức tượng quan-quân u hoài trầm mặc; tôi và phu-quân được khoác Long Bào của Vua và Hoàng-Hậu như một thời Phong-Kiến xưa, thưởng-thức các món Phượng-Hoàng, Long-Quân khai-vị, Nem-Công-Chả-Phụng tuyệt-hảo và thích nhất khi xem trình diễn “nhã nhạc cung-đình” trong một không-gian rất Huế, rất hoàng-triều. Đúng như ý bài thơ của Đinh-Thu đã giới-thiệu về nơi chốn này:
“Đến đây trông bóng người xưa
Cung ngà điện ngọc nắng mưa một thời
Tìm riêng mình phút thảnh thơi
Quên đi hiện tại nghiệp đời mênh mang
Dìu hồn vào cõi mơ màng
Lắng trong quá khứ son vàng từ tâm”
(Link: http://www.royalpark.com.vn/Home )
Cảm-ơn Huế cho một lần trở lại rất trữ tình. đáng ghi nhớ, đáng mến, đáng yêu. Xin viết lại bài ca-dao dưới đây để gửi tặng phu-quân tôi và cho tất-cả những đôi uyên-ương của Huế chan hòa yêu thương & ngàn đời thơ mộng:
“Khi nào cạn nước Đồng-Nai
Nát chùa Thiên-Mụ mới sai lời nguyền!
Tay bưng dĩa muối chấm gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng bỏ nhau!
Núi Ngự-Bình trước tròn sau méo
Sông An-Cựu nắng đục mưa trong,
Đôi ta nguyện kết chữ đồng
Đá mòn sông cạn mà lòng thủy-chung!
Dãy dọc tòa ngang, giàu sang có số
Kim-Long, Nam-Phổ, nước đổ về Sình
Hai đứa mình gá nghĩa ba sinh,
Dẫu có mần răng đi nữa, hai đứa mình không thể bỏ nhau
Đôi ta kết nghĩa vợ chồng
Đá mòn, sông cạn mà lòng thủy-chung!” (Ca Dao)
www.diamondbichngoc.com
Gửi ý kiến của bạn