Câu đối là một thể văn biền ngẫu gồm có hai vế, mỗi vế có số lượng từ bằng nhau và đối nhau về: nghĩa, tự loại, âm điệu... Dùng biểu lộ tình cảm, tư tưởng trong cuộc sống hoặc dùng thử thách trí thông minh.
Trong 2 vế câu đối, phải đối với nhau tuyệt đối cân xứng về: Đối âm là trắc (T) đối với bằng (B). Đối tự loại là danh tự đối với danh tự, tĩnh từ đối với tĩnh từ... Đối ý là đối về ý nghĩa của hai vế.
Câu đối nếu do một người làm ra cả hai vế, thì sẽ gọi là vế trên và vế dưới. Một vế (câu) do một người xướng ra thì gọi là vế ra và vế (câu) kia do người khác đối lại gọi là vế đối.
Nếu câu đối dùng mỗi vế 5 chữ thì có thể dùng cặp thực hay cặp luận trong thơ ngũ ngôn, nếu mỗi vế 7 chữ thì có thể dùng cặp thực hay cặp luận trong thơ thất ngôn. Nếu mỗi vế 9 chữ, 11 chữ hay dài hơn... Hai vế vẫn đối nhau tuyệt đối. Chữ cuối của vế ra thường là âm trắc (T) và chữ cuối của vế đối thường là âm bằng (B). Khi treo liễn đối, người đứng nhìn (mặt đối diện 2 câu liễn), thì chữ cuối câu đối ở phía bên tay trái người ấy là thanh trắc (T) và bên tay phải người ấy là thanh bằng (B).
a- Một vài câu đối giữa người Việt và Tàu: Vào thời nhà Trần, Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi đi sứ Tàu, vua Nguyên ra câu đối: “Nhật hỏa, vân yên, bạch đán thiêu tàn ngọc thố”. (Mặt trời là lửa, mây là khói, ban ngày đốt cháy mặt trăng). Vua Nguyên tự ví mình là mặt trời, Việt Nam là mặt trăng. Trạng đối lại: “Nguyệt cung, tinh đạn, hoàng hôn xạ lạc kim ô”. (Trăng là cung, sao là đạn, chiều tối bắn rơi mặt trời). Vua Nguyên vừa thẹn vừa giận, nhưng nén giận để tỏ ra vua không nhỏ nhen.
Năm 1638, Giang Văn Minh đi sứ qua Tàu, đến triều Minh, vua Minh Tư Tông là Chu Do Kiểm, lại xem thường nước ta, ra câu đối với sứ giả Đại Việt: “Đồng trụ chí kim đài di lục” (Cột đồng đến nay đã rêu xanh), ý vua Minh muốn nhắc chuyện Mã Viện dựng cột đồng khắc chữ: “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt”. Giang Văn Minh vì danh dự nước mình, nên thẳng thắn đối lại: “Đằng giang tự cổ huyết do hồng” (Nước sông Bạch Đằng từ xưa đến giờ máu còn hồng”. Nghĩa câu này nhắc lại chiến công lẫy lừng của Ngô Quyền và Hưng Đạo Vương, đã giết quân Tàu ở Bạch Đằng giang, đến nay máu dòng sông còn đỏ. Vua Minh quá thẹn sinh giận, bất chấp luật lệ bang giao; cho người mổ bụng xem “sứ thần An Nam to gan đến đâu”, ngày ấy là mùng 2 tháng 6 năm Kỷ Mão (1639). Minh Tư Tông giận vì thẹn, nhưng kính trọng người khẳng khái, cho ướp xác ông bằng bột thủy ngân và đưa thi hài về nước; khi về đến Thăng Long, vua Lê Thần Tông và chúa Trịnh Tráng bái kiến linh cữu, gọi ông là vị sứ thần “Bất nhục quân mệnh” (Không để nhục mệnh vua). Rồi lo an táng trọng thể.
Vào cuối thời Lê Trung Hưng, sứ Tàu đến Đại Việt, triều đình cử bà Đoàn Thị Điểm tạm làm cô bán hàng nước, còn Trạng Quỳnh, thì giả làm người chèo đò, khi sứ Tàu vào quán nước thấy cô bán nước (bà Điểm) duyên dáng, muốn ghẹo mà lời lẽ lại khinh người nước ta, liền đọc: “An Nam nhất thốn thổ, bất tri kỷ nhân canh” (An nam một tấc đất, không biết bao nhiêu người cày, còn có ý, một người đàn bà An Nam nhiều kẻ chơi bời). Bà mỉm cười, đối lại: “Bắc quốc đại trượng phu, giai do thử đồ xuất” (Các quan lớn phương Bắc, đều từ đấy mà ra). Sứ Tàu bị lỡm đau, thẹn thùng muốn về nước sớm, lại phải đi thuyền để qua sông, một gả sứ Tàu lại trung tiện (đánh rắm), để chữa thẹn và cũng chưa chừa tính hỗn láo, liền nói: “Lôi động Nam bang” (Sấm dội nước Nam). Trạng Quỳnh đứng dậy vén quần, xây mặt hướng Bắc đứng tiểu xuống nước, đối trả: “Vũ qua Bắc Hải” (Mưa qua bể Bắc). Bọn sứ Tàu nhìn nhau vừa thẹn vừa ấp a ấp úng...
b- Một số câu của vế ra, chưa có vế đối được chỉnh:
Trạng Quỳnh đến nhà Đoàn Thị Điểm, biết Đoàn Thị Điểm đang tắm trong phòng, mà vẫn nằng nặc đòi vào. Đoàn Thị Điểm bảo: muốn vào phải đối trước đã, liền đọc: “Da trắng vỗ bì bạch”. Câu ra quá khó, vì chữ bì bạch, tiếng Nôm là tiếng kêu khi vỗ tay vào da thịt, tiếng Hán bì bạch là da trắng. Quỳnh ngẫm nghĩ một hồi vẫn không đối được, tự động rút lui.
Câu khác: “Bò lan chạy vào làng Bo”. Bò lang là bò có lông loang lổ, còn làng Bo là địa danh, mà nói lái bò lang thành làng Bo, nên chưa ai đối được...
c- Một số câu đối tết: - Câu đối thường được nhắc nhở:
Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ
Cây nêu tràng pháo bánh chung xanh.
- Câu đối tết của Nguyễn Công Trứ:
Bầu một chiếc lăn chiêng, mặc sức: tam dương khai thái
Nhà hai gian bỏ trống, tha hồ: ngũ phúc lâm môn.
- Câu đối tết của Nguyễn khuyến:
Tối ba mươi, nợ réo tí mùi, ấy mới tết
Sáng mùng một, rượu tràn quí tỵ, ấy là xuân.
- Câu đối tết của Tú Xương:
Thiên hạ xác rồi còn đốt pháo
Nhân tình bạc thế lại bôi vôi...
Nguyễn Lộc Yên
Trong 2 vế câu đối, phải đối với nhau tuyệt đối cân xứng về: Đối âm là trắc (T) đối với bằng (B). Đối tự loại là danh tự đối với danh tự, tĩnh từ đối với tĩnh từ... Đối ý là đối về ý nghĩa của hai vế.
Câu đối nếu do một người làm ra cả hai vế, thì sẽ gọi là vế trên và vế dưới. Một vế (câu) do một người xướng ra thì gọi là vế ra và vế (câu) kia do người khác đối lại gọi là vế đối.
Nếu câu đối dùng mỗi vế 5 chữ thì có thể dùng cặp thực hay cặp luận trong thơ ngũ ngôn, nếu mỗi vế 7 chữ thì có thể dùng cặp thực hay cặp luận trong thơ thất ngôn. Nếu mỗi vế 9 chữ, 11 chữ hay dài hơn... Hai vế vẫn đối nhau tuyệt đối. Chữ cuối của vế ra thường là âm trắc (T) và chữ cuối của vế đối thường là âm bằng (B). Khi treo liễn đối, người đứng nhìn (mặt đối diện 2 câu liễn), thì chữ cuối câu đối ở phía bên tay trái người ấy là thanh trắc (T) và bên tay phải người ấy là thanh bằng (B).
a- Một vài câu đối giữa người Việt và Tàu: Vào thời nhà Trần, Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi đi sứ Tàu, vua Nguyên ra câu đối: “Nhật hỏa, vân yên, bạch đán thiêu tàn ngọc thố”. (Mặt trời là lửa, mây là khói, ban ngày đốt cháy mặt trăng). Vua Nguyên tự ví mình là mặt trời, Việt Nam là mặt trăng. Trạng đối lại: “Nguyệt cung, tinh đạn, hoàng hôn xạ lạc kim ô”. (Trăng là cung, sao là đạn, chiều tối bắn rơi mặt trời). Vua Nguyên vừa thẹn vừa giận, nhưng nén giận để tỏ ra vua không nhỏ nhen.
Năm 1638, Giang Văn Minh đi sứ qua Tàu, đến triều Minh, vua Minh Tư Tông là Chu Do Kiểm, lại xem thường nước ta, ra câu đối với sứ giả Đại Việt: “Đồng trụ chí kim đài di lục” (Cột đồng đến nay đã rêu xanh), ý vua Minh muốn nhắc chuyện Mã Viện dựng cột đồng khắc chữ: “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt”. Giang Văn Minh vì danh dự nước mình, nên thẳng thắn đối lại: “Đằng giang tự cổ huyết do hồng” (Nước sông Bạch Đằng từ xưa đến giờ máu còn hồng”. Nghĩa câu này nhắc lại chiến công lẫy lừng của Ngô Quyền và Hưng Đạo Vương, đã giết quân Tàu ở Bạch Đằng giang, đến nay máu dòng sông còn đỏ. Vua Minh quá thẹn sinh giận, bất chấp luật lệ bang giao; cho người mổ bụng xem “sứ thần An Nam to gan đến đâu”, ngày ấy là mùng 2 tháng 6 năm Kỷ Mão (1639). Minh Tư Tông giận vì thẹn, nhưng kính trọng người khẳng khái, cho ướp xác ông bằng bột thủy ngân và đưa thi hài về nước; khi về đến Thăng Long, vua Lê Thần Tông và chúa Trịnh Tráng bái kiến linh cữu, gọi ông là vị sứ thần “Bất nhục quân mệnh” (Không để nhục mệnh vua). Rồi lo an táng trọng thể.
Vào cuối thời Lê Trung Hưng, sứ Tàu đến Đại Việt, triều đình cử bà Đoàn Thị Điểm tạm làm cô bán hàng nước, còn Trạng Quỳnh, thì giả làm người chèo đò, khi sứ Tàu vào quán nước thấy cô bán nước (bà Điểm) duyên dáng, muốn ghẹo mà lời lẽ lại khinh người nước ta, liền đọc: “An Nam nhất thốn thổ, bất tri kỷ nhân canh” (An nam một tấc đất, không biết bao nhiêu người cày, còn có ý, một người đàn bà An Nam nhiều kẻ chơi bời). Bà mỉm cười, đối lại: “Bắc quốc đại trượng phu, giai do thử đồ xuất” (Các quan lớn phương Bắc, đều từ đấy mà ra). Sứ Tàu bị lỡm đau, thẹn thùng muốn về nước sớm, lại phải đi thuyền để qua sông, một gả sứ Tàu lại trung tiện (đánh rắm), để chữa thẹn và cũng chưa chừa tính hỗn láo, liền nói: “Lôi động Nam bang” (Sấm dội nước Nam). Trạng Quỳnh đứng dậy vén quần, xây mặt hướng Bắc đứng tiểu xuống nước, đối trả: “Vũ qua Bắc Hải” (Mưa qua bể Bắc). Bọn sứ Tàu nhìn nhau vừa thẹn vừa ấp a ấp úng...
b- Một số câu của vế ra, chưa có vế đối được chỉnh:
Trạng Quỳnh đến nhà Đoàn Thị Điểm, biết Đoàn Thị Điểm đang tắm trong phòng, mà vẫn nằng nặc đòi vào. Đoàn Thị Điểm bảo: muốn vào phải đối trước đã, liền đọc: “Da trắng vỗ bì bạch”. Câu ra quá khó, vì chữ bì bạch, tiếng Nôm là tiếng kêu khi vỗ tay vào da thịt, tiếng Hán bì bạch là da trắng. Quỳnh ngẫm nghĩ một hồi vẫn không đối được, tự động rút lui.
Câu khác: “Bò lan chạy vào làng Bo”. Bò lang là bò có lông loang lổ, còn làng Bo là địa danh, mà nói lái bò lang thành làng Bo, nên chưa ai đối được...
c- Một số câu đối tết: - Câu đối thường được nhắc nhở:
Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ
Cây nêu tràng pháo bánh chung xanh.
- Câu đối tết của Nguyễn Công Trứ:
Bầu một chiếc lăn chiêng, mặc sức: tam dương khai thái
Nhà hai gian bỏ trống, tha hồ: ngũ phúc lâm môn.
- Câu đối tết của Nguyễn khuyến:
Tối ba mươi, nợ réo tí mùi, ấy mới tết
Sáng mùng một, rượu tràn quí tỵ, ấy là xuân.
- Câu đối tết của Tú Xương:
Thiên hạ xác rồi còn đốt pháo
Nhân tình bạc thế lại bôi vôi...
Nguyễn Lộc Yên
Gửi ý kiến của bạn