Đấy là khác biệt chính giữa hai ứng cử viên tổng thống năm nay, khi dân Mỹ theo dõi các trận đấu tại Thế vận hội. Bây giờ, trái banh ấy là Georgia.
***Khi Liên bang Xô viết tan rã, nhiều người Mỹ đã tin vào kết luận lạc quan của Francis Fukuyama, rằng Chiến tranh lạnh kết thúc, lịch sử cáo chung, và chủ nghĩa tư bản đã thắng thế. Kinh tế tự do và chính trị dân chủ là quy luật phổ biến cho nhân loại. Từ nay, vì làm ăn với nhau cho sự thịnh vượng chung của nhân loại, các nước sẽ bớt lý do gây chiến với nhau. Thiên hạ thái bình!
Bị "hội chứng Tiêu Bán Sơn" - nhân vật của Kim Dung trong Thiên long Bát bộ", Tổng thống George H. Bush bỗng dưng thấy đời trống vắng vì đối thủ Liên Xô không còn. Ông cũng có phản ứng lạc quan rất Mỹ. Nhờ Cố vấn An ninh Brent Scowcroft nhắc cho một chữ, ông tung ra khẩu hiểu "Trật tự mới" của thế giới. Đó là nội dung bài diễn văn Tổng thống Bush 41 trình bày trước Quốc hội Hoa Kỳ ngày 11 tháng Chín năm 1990 (ta hãy cố nhớ ngày này): Thế giới từ nay sẽ khác, chế độ pháp trị sẽ thay thế luật rừng, các quốc gia sẽ cùng chia sẻ trách nhiệm tự do và công lý với nhau. Và quyền sống của kẻ yếu sẽ được tôn trọng.
Lên kế nhiệm sau khi đắc cử năm 1992, Tổng thống Bill Clinton cũng không nghĩ khác. Nước Mỹ được hưởng "cổ tức hoà bình", cắt giảm quân phí để dồn qua chuyện ích quốc lợi dân. Và đã qua mười năm mộng du như vậy. Cho đến một ngày 11 tháng Chín khác, cho đến vụ khủng bố 9-11 vào năm 2001. Lúc ấy, người ta mới thấy 10 năm trong mộng du hoà bình của Mỹ là 10 năm chinh chiến của Liên bang Nam Tư với nhiều vụ tàn sát, diệt chủng. Và cũng là 10 năm mai phục của al-Qaeda với thành tích chói lọi là vụ tàn sát dân Mỹ trong trận khủng bố kinh hoàng nhất lịch sử thế giới.
Lịch sử không hề cáo chung, chủ nghĩa tư bản không trở thành quy luật phổ biến toàn cầu và hoà bình không thể có. Việc Georgia bị Liên bang Nga tấn công vào ngày tám tám cũng vậy. Là chuyện có thể xảy ra và đã xảy ra.
***Trong lịch sử loài người, sau một trận đại chiến (là khi có sự tham gia của nhiều quốc gia), phe chiến thắng luôn luôn mắc bệnh chủ quan và tin rằng sở dĩ mình thắng là vì mình khôn hay mình có lý - có chính nghĩa. Vì tin như vậy, phe chiến thắng mới thiết lập một... "trật tự mới" (xin lỗi ông Scowcroft), với những hiệp ước, hoà ước hay cơ chế do mình gây dựng lên, và tin rằng non sông từ nay sẽ vĩnh viễn thanh bình.Hội nghị Vienna năm 1814 giữa các nước Âu Châu đã đánh bại Napoléon hay Hoà ước Versailles vào năm 1919 sau Thế chiến I hoặc cơ chế Liên hiệp quốc ra đời năm 1945 sau Thế chiến II là những điển hình.
Nhưng chiến tranh vẫn tái tục, rất lạnh cho các nước lớn và cực nóng cho các nước nhỏ. Chưa nói tới mấy chục triệu người mất mạng vì "cách mạng" trong phe chiến thắng, tại Liên Xô, Trung Quốc, Cam Bốt hay Việt Nam...Chiến tranh là chuyện... thường tình. Trật tự mới chỉ là một sự dồn nén sẽ gây sức bật cho một trật tự khác, sau khi lại có chiến tranh. "Thủy hoả ký tế" xong lại đến "Hỏa thủy vị tế" - nước với lửa vẫn khó tương dung nên chuyện xung khắc vẫn là... chưa hết! Vì sao lại có nghịch lý nghe cứ như dịch lý vậy"
***Sau một trận đại chiến, trong nội bộ phe chiến thắng tất phải có sự xoay chuyển. Sau Chiến tranh lạnh, các nước Tây Âu đồng minh của Hoa Kỳ đã được giải phóng khỏi nỗi lo sợ chiến tranh từ Liên Xô nên đi tìm một định mệnh khác. Ưu tiên an ninh trở thành thứ yếu so với ưu tiên kinh tế. Họ cũng không muốn thấy một thế giới chỉ còn Hoa Kỳ là độc bá. Hết sợ chết, họ sợ nghèo, sợ đói, và trên đỉnh cao của nền văn minh Âu châu, họ có thể dạy dỗ Hoa Kỳ những bài học về xử thế. Thế rồi, khi hữu sự vì khủng hoảng trong Liên bang Nam Tư cũ, Âu Châu khôn ngoan ấy nhường chuyện dàn xếp cho Hoa Kỳ, tại Bosnia hay Kosovo.Trật tự mới của ông Bush 41 thành chuyện viển vông.
Khi Chiến tranh lạnh kết thúc, từ bên chiến bại - hoặc được giải phóng - một số nước Cộng hoà trong khối Xô viết cũ đã cố nối lại con đường độc lập và dân chủ hoá bị gián đoạn bởi Chiến tranh lạnh và sự áp bức Xô viết. Đó là ba nước Baltic (Estonia, Latvia, Lithuania), các nước Đông Âu, rồi các nước trong vùng Balkans của Nam Tư cũ và các nước trong vùng biển Caspian như Ukraine hay Georgia. Họ gia nhập Liên hiệp Âu châu hay Minh ước Bắc Đại Tây Dương NATO và khám phá rằng họ là "Âu châu mới", với mối quan tâm vừa an ninh vừa kinh tế.
Về kinh tế, họ phải chịu cảnh chiếu dưới so với các nước Tây Âu (Âu châu cũ").
Về an ninh, họ dựa vào Hoa Kỳ hơn là các láng giềng Tây Âu, vốn đang chú ý đến chuyện kinh tế và không muốn làm mất lòng Liên bang Nga, một nguồn cung cấp đáng kể vể năng lượng và nguyên vật liệu.Trật tự mới của ông Bush 41 là sự rạn nứt của Âu Châu, với hai tốc độ tăng trưởng và hai hướng nhìn khác nhau. Trong khi ấy, phe chiến bại cũng chẳng cúi đầu. Trung Quốc đã cải cách và cố quên bước "Nhảy vọt vĩ đại" hay cuộc "Đại văn cách" để "ăn của địch mà chống địch". Xã hội chủ nghĩa với màu sắc Trung Hoa là vậy. Liên bang Nga thời Boris Yeltsin cũng thấy rằng cải cách theo kiểu Tây phương dân chủ là chuyện rủi ro, nên tạo cơ hội cho một Vladimir Putin xuất hiện, theo kiểu khác.
Và cả hai đều là những nước không chấp nhận quy luật của Mỹ, lại có thế mạnh trong Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc nhờ lá phiếu phủ quyết. Họ suy tính theo quyền lợi của họ, và muốn chấm dứt tình trạng độc bá của Hoa Kỳ.
Khi Chiến tranh lạnh kết thúc, một số lực lượng không quan hệ gì đến chuyện đối đầu Đông Tây ngày xưa cũng nhìn ra định mệnh mới và con đường mới. Khi Hoa Kỳ bị lôi vào trận chiến bất ngờ với quân khủng bố Hồi giáo rồi vướng chân vào hai chiến trường Afghanistan và Iraq, các "cường quốc mới" theo nhau xuất hiện: như Iran, Syria, Venezuela và cả Bắc Hàn. Các xứ này sẵn sàng hợp tác với Liên bang Nga hay Trung Quốc để ra khỏi "Trật tự mới" của Hoa Kỳ.
***Còn lại, siêu cường độc bá sau Chiến tranh lạnh là quốc gia duy nhất có khả năng can thiệp toàn cầu và lãnh trách nhiệm bảo an toàn cầu. Đó là Hoa Kỳ, với quân lực Mỹ là cốt lõi, vòng ngoài là Minh ước NATO, và vành đai ngoại giao là Liên hiệp Âu châu rạn nứt, là Liên hiệp quốc bất lực.
Sau Chiến tranh lạnh, Hoa Kỳ là thế lực kinh tế và quân sự vẫn đáng kể nhất, và còn giữ được tư thế độc bá này ít ra vài chục năm. Nhưng trước mắt, siêu cường ấy bị căng mỏng phương tiện cho hai chiến trường Afghanistan và Iraq trong một trận chiến toàn cầu chống quân khủng bố Hồi giáo. Nghịch lý khó hiểu mà lại hợp lý là Mỹ đang hết bận và có khi trở lại vị thế đáng ghét: khi chiến trường Iraq bắt đầu ổn định và việc rút quân là khả thể, thì nhược điểm nhất thời của Mỹ sẽ kết thúc.
Không đợi ngày Hoa Kỳ kéo các lữ đoàn tác chiến từ Iraq qua tăng viện cho chiến trường Afghanistan, hoặc đi làm lính sen đầm quốc tế ở nơi khác, Liên bang Nga của Putin phải ra đòn. Càng phải ra đòn vì nước Mỹ tiếp tục phát huy dân chủ vào những khu vực xưa kia là thuộc quốc hay quỹ đạo của Đế quốc Nga hay Liên bang Xô viết. Càng dễ ra đòn khi Liên Âu tách đôi về ưu tiên (Đông sợ chết và Tây sợ đói), và liên minh Âu Mỹ rạn nứt vể cả an ninh lẫn kinh tế. Và ra đòn càng mạnh khi kinh tế Hoa Kỳ và Âu Châu đều có vẻ suy sụp. Huống hồ, Hoa Kỳ đang có bầu cử!
Nơi ra đòn dễ nhất vì là mắt xích yếu nhất của vòng đai phòng vệ Tây phương chính là Georgia. Quả nhiên, dư luận Mỹ tranh luận và cãi cọ về hai lẽ chiến hoà. Quả nhiên, Chủ tịch Luân phiên của Âu Châu là Pháp đề nghị giải pháp ngưng bắn, với điều 5 cho phép Liên bang Nga duy trì sự hiện diện quân sự tại Georgia, dưới nhãn hiệu "bảo an". Quả nhiên là Thủ tướng Đức bay qua Sochi nói chuyện hoà giải với Tổng thống Nga, có khi còn có mật ước Nga Đức cố hữu trong lịch sử là "bất tương xâm". Quả nhiên là các nước Âu Châu "mới" phải chụp lấy lá chắn phòng vệ của NATO - của Mỹ - và gây khó chịu cho các nước Âu Châu "cũ".
Và nguyên một vòng đai dân chủ của Âu Châu bị lung lay, từ ba nước Baltic về tới Ba Lan, Hung Gia Lợi, Cộng hoà Tiệp và Ukraine. Họ có thể tin vào lời cam kết hay khả năng bảo vệ của Hoa Kỳ hay không" Và có thể tin vào đại cường Âu Châu là nước Đức hay không"
Trong thời Chiến tranh lạnh, Đức là đại cường có mặt trên cả hai trận tuyến Đông Tây. Tây Đức bị kéo vào Minh ước NATO, Đông Đức là chiến lũy của Minh ước quân sự Warsaw. Giờ đây, xứ này đã thống nhất và lại cần khí đốt của Nga, nên dại gì làm tiền đồn chống Nga để hy sinh cho sự an toàn của các nước Âu châu mới" Đây là bài toán của Thủ tướng Angela Merkel, và với kinh nghiệm sinh sống tại Đông Đức, bà sẽ tìm ra giải pháp an toàn và lịch sự cho nước Đức. Ít ra cũng không nhục nhã như vị tiền nhiệm là Thủ tướng Erhard Schroeder, nay đang ăn lương của Tổng công ty Gasprom của Nga và vọng về công kích Tổng thống Georgia!
Trong cuộc chiến chống khủng bố toàn cầu, Pháp đã có mặt trên chiến trường "sạch" và "có chính nghĩa" là Afghanistan. Tuần qua, quân Pháp tại đây bị lực lượng Taliban phục kích khiến 10 binh sĩ bị tử vong. Lập tức, dư luận Pháp tranh luận và 55% dân chúng cho rằng Pháp chẳng có lý do gì đem quân qua Afghanistan! Người ta sẵn sàng quên tội ác của Taliban vào đầu năm 2001, khi phá hủy các pho tượng Phật rất cổ của nhân loại. Nhiều người Pháp cũng quên liên minh quân sự NATO, lý do khiến Pháp - cùng 24 nước trong 27 hội viên Âu Châu - đã đưa quân vào Afghanistan.
Sáng chói nhất về sự thâm thúy là lập trường của Thủ tướng Anh, Gordon Brown. Anh chuẩn bị thao diễn quân sự với Georgia vào tháng tới, nhưng, khi hữu sự thì im lặng vô tuyến. Nếu theo dõi, người ta còn được biết là năm ngoái, quân Anh tại Iraq đã đi đêm với phiến quân Mahdi Army của lãnh tụ Muqtada al-Sadr để khỏi giao tranh và bàn giao nguyên cục than hồng cho các đơn vị Mỹ. May là chiến lược dồn quân đánh tới đã có kết quả.
Vì vậy, dù có ngủ mơ, giới lãnh đạo Hoa Kỳ cũng biết rằng khi bị chơi bạo, các nước đồng minh đều tháo chạy! Anh hùng lắm thì xỉ vả đả kích Hoa Kỳ, rồi cũng tháo chạy.
Trật tự mới - hay cũ - là sự phũ phàng của tình đời!
Bây giờ, hy vọng còn lại của các nước Âu châu mới là tấm lưới NATO đủ chắc (hệ thống phòng thủ chiến lược BMD có hiệu quả hay không) để bảo vệ được họ. Và Chính quyền mới của nước Mỹ sẽ tuân thủ những cam kết của chính quyền cũ. Cụ thể hơn, họ tự hỏi là Obama và McCain, ai sẽ lãnh đạo nước Mỹ.Chúng ta trở lại chuyện thấy banh là đập, hay là né, của McCain và Obama. Khi bỏ phiếu, đa số dân Mỹ không quan tâm gì đến nỗi lo ấy của người dân Âu Châu. Mà cũng chẳng để ý đến chuyện Trật tự mới hay cũ, Chiến tranh lạnh đã tái nhóm hay chưa...
***Nếu suy từ kinh nghiệm Georgia qua hoàn cảnh Việt Nam, bên cạnh một cường quốc còn thâm còn ác hơn Liên bang Nga, chúng ta nên giật mình.Những quy luật bình thường sau một trận đại chiến đều đã xảy ra tại Việt Nam.
Chiến thắng rồi, Hà Nội coi miền Nam là đất phụ dung, vùng thọc tay cướp bóc vô tội vạ. Nhưng, chính là phản ứng bén nhạy và cần cù người dân trong Nam đã cứu nguy kinh tế xã hội chủ nghĩa, là chuyện Hà Nội không tưởng tượng nổi!
Say đòn 1975, Hà Nội đòi đứng ngang tầm sư phụ và hoà giải hai nước đàn anh, sau còn "giải phóng" Kampuchia và bị Bắc Kinh cho một bài học. "Trật tự mới xã hội chủ nghĩa" chỉ là chuyện răng cắn môi bật máu của cái thế "môi hở răng lạnh" thời xưa... Đến độ ngày nay, khi Trung Quốc dùng tay chân bắn tiếng là sẽ còn cho Việt Nam một bài học nữa, nhiều người thầm mong rằng Hà Nội sẽ rơi vào tấm lưới của Hoa Kỳ.
Để được bảo vệ!Dù là thế yếu, dân Georgia vẫn còn có dân chủ, họ không coi chế độ Saaskashvili là kẻ thù và vẫn có phản ứng quật khởi chống lại sự xâm lược của Nga. Dân Việt Nam có được như vậy không, chúng ta chưa biết. Nhưng biết chắc là họ không được quyền lên tiếng chống Tầu. Quyền dân chủ không có, quyền bảo vệ độc lập cũng bị tước đoạt.
Có vài ba cường quốc có khả năng ngăn ngừa được tai hoạ thì khi vào Việt Nam làm ăn, họ bị lãnh đạo móc túi! Chuyện viện trợ ODA của Nhật cho Việt Nam bị ăn cắp như thế nào có thể báo trước, rằng Việt Nam sẽ không là một Georgia.Mà nhục hơn nhiều!