Hình ảnh tại ngôi vườn báu Tây Tạng trên đất Ấn Độ |
Nhưng đó là báu vật Tây Tạng dưới tàng cây Trung Quốc, có cái dạng của một cuộn dây thép gai vô hình, được trưng ra để vét tiền du khách và chứng minh giá trị của nền văn minh Đại Hán.
Norbulingka ấy coi như vô chủ kể từ khi Tây Tạng bị chiếm đóng năm 1959 và đức Đạt Lai Lạt Ma phải sống lưu vong bên Ấn Độ, trên đất Dharamsala.
Trên đất Dharamsala này, dân Tây Tạng lưu vong đã cố duy trì và bảo tồn nét văn hoá của họ đang bị tiêu diệt lần mòn tại Trung Quốc. Một trong những nơi mà văn hoá và nghệ thuật Tây Tạng được tái tạo và phát huy ở Dharamsala là "Viện Norbulingka".
Cách đặt tên cũng là một gợi nhớ đến "vườn báu Norbulingka" tại Lhasa.
Chúng tôi có dịp ghé thăm Viện Norbulingka này ở tại Dharamsala.
Đến nơi mới thấy sự vĩ đại của người dân Tây Tạng.
Thế giới và các du khách vô tâm có thể hài lòng với Norbulingka tại Lhasa với một số tiết mục văn hoá và nghệ thuật (rất ít tôn giáo) được chính quyền Trung Quốc duy trì làm cảnh. Làm vật trang trí cho chánh sách thực dân và diệt chủng văn hoá của họ trên lãnh thổ Tây Tạng. Nếu như không biết, hoặc có quên, thì thế giới cần nhớ là một trong ba tu viện lớn nhất của Tây Tạng trong khu vực Lhasa là tu viện Ganden Shartse do chính vị đại sư sáng lập ra dòng Gelugpa là Tsongkhapa xây dựng từ năm 1409 đã bị Hồng quân Trung Quốc phá hủy hoàn toàn sau vụ xâm lăng năm 1959. Ngày nay, tu viện Ganden lớn nhất của Tây Tạng hiện nằm trong tiểu bang Tarnataka tại miền Nam Ấn Độ. Lớn gấp bội so với Tu viện Ganden nguyên thủy tại Tây Tạng.
Vấn đề ở đây không nằm trong kích thước mà trong ý chí.
Khi phải lưu vong nơi đất khách và nhìn thấy quê hương bị tàn phá, đền đài bị hủy diệt, văn hoá bị xóa bỏ, dân Tây Tạng tỵ nạn đã có ngay một phản ứng tâm linh và tâm lý đáng quý. Đó là bằng mọi giá phải duy trì được tinh hoa văn hoá nghệ thuật của dân tộc, hầu sau này dân Tây Tạng và nhân loại còn biết thế nào là văn hoá Tây Tạng.
Nơi sẽ tập trung những tinh hoa ấy là một khoảnh đất hoang tại Dharamsala.
Họ quyết định xây ra một viện bảo tàng. Viện Norbulingka trở thành cơ quan vô vụ lợi, một quỹ tín thác cho mục tiêu văn hoá, được chính đức Đạt Lai Lạt Ma làm Chủ tịch.
Năm đó là 1984, 25 năm sau khi Tây Tạng bị xâm chiếm.
Dân Tây Tạng có phản ứng sinh tồn văn hoá rất đặc biệt, có lẽ mãnh liệt hơn phản ứng sinh tồn kinh tế hay sinh lý của nhiều sắc dân khác. Sự khuyến khích hay dạy dỗ của đức Đạt Lai Lạt Ma có thể là một động lực quan trọng. Đặt chân lên đất tạm cư, việc đầu tiên họ làm là xây trường học, thực ra cũng là tu viện vì Phật giáo là một phần không tách rời khỏi văn hoá hay nghệ thuật Tây Tạng.
Nhưng, ngoài các trung tâm quảng bá văn hoá, là ngôn ngữ và lịch sử Tây Tạng cùng với giáo lý nhà Phật, họ cũng phải có nơi thu thập và đào luyện nghệ sĩ trong các địa hạt như mỹ thuật, hội họa, kiến trúc và các ngành thủ công mỹ nghệ khác. Trong ý hướng của dân Tây Tạng lưu vong tại Ấn Độ, Viện Norbulingka là nơi đó.
Dân Tây Tạng lưu vong trên thế giới chỉ vỏn vẹn có chừng một trăm ngàn người, những thế hệ đào thoát khỏi Tây Tạng sau này thì đã có nhiều năm sinh sống dưới chế độ xã hội chủ nghĩa với "màu sắc Trung Hoa", tức là "phi Tây Tạng". Làm sao thu thập người tài và đào tạo ra thế hệ nghệ nhân sẽ tiếp nối truyền thống văn hoá mỹ thuật nguyên thủy"
Và trước tiên, tìm đâu ra tiền mua đất cho những người này có một chốn dung thân, nuôi nghề và dạy nghề"
Dân Tây Tạng chưa hề nổi tiếng là giỏi kinh doanh buôn bán như người Hoa, người Việt, người Lebanon hay dân Do Thái, cho nên tiền bạc là bài toán đầu tiên.
Bài toán ấy được đặt ra từ năm 1984, với quyết định thành lập Viện Norbulingka trên một vùng đất hoang nằm trong thung lũng Kangra dưới chân Dharamsala. Thay vì phải sống trong một lồng kính văn hóa dựa trên những gì đem theo trong ký ức, họ vận động quyên góp từ bốn phương và được sự yểm trợ quý báu của nhiều nhà hằng tâm hằng sản thế giới, trước tiên là một khoản tiền do chính đức Đạt Lai Lạt Ma cúng dường.
Nhờ đó, họ mua được khoảnh đất vây quanh một cây bồ đề có tuổi thọ là 500 năm.
Và một đặc tính Tây Tạng đã được thấy ngay từ ngày đó.
Họ phác hoạ trong đầu và trên giấy sơ đồ kiến trúc của cả quần thể, thay vì xây dựng và phát triển theo kiểu "liệu cơm gắp mắm", mỗi năm một ít theo đà bành trướng của phương tiện mà thành tùy tiện, lệch lạc. Họ cũng không... chấp vào hình tướng là phải tìm kiến trúc sư Tây Tạng dựng hoạ đồ thì mới có bản sắc dân tộc. Bộ Tôn giáo và Văn hoá của Chính phủ Lưu vong Tây Tạng mời một kiến trúc sư Nhật Ban thiết kế mô hình, nhưng căn cứ trên một bức tranh thờ đức Quán Thế Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn của mỹ thuật tôn giáo Tây Tạng.
Đức Đạt Lai Lạt Ma vốn là một hiện thân của Bồ Tát Quán Thế Âm.
Chuyện kế tiếp là một thực tế có ánh nhiệm màu của một phép lạ.
Năm 1987, một vị đại sư thuộc đẳng trật Rinpoche (Đạo sư Báu vật Tây Tạng) được mời qua Anh nói chuyện trong một chương trình trao đổi về tôn giáo và gặp một nhà tu dòng Benedictine. Nhà tu này lại là bạn thân của một doanh gia kiêm nhà sưu tập hoạ phẩm nổi tiếng thế giới là Nam tước (Baron) Thyssen-Bornemisza nên ông thu xếp cho hai người gặp nhau.
Trong kho báu vật của Baron Thyssen có tấm tranh con trâu núi Tây Tạng (con yak) do một vị Ban Thiền Lạt Ma tặng cho từ thế kỷ 18. Mà vị Đại sư này cũng là một trong những người được tin là hoá thân của một Ban Thiền Lạt Ma!
Câu chuyện giữa cao tăng Tây Tạng và doanh gia Âu châu chuyển dần về Tây Tạng và khi được hỏi, vị Đại sư Tây Tạng (tên Ngài là Panchen Otrull Rinpoche) mới kể, rằng chúng tôi đang lập ra một Viện bảo tàng và hiện phải đón nhận rất nhiều vị sư trốn thoát từ Tây Tạng. Chúng tôi cần tiền nuôi sư và nhất là tạo điều kiện cho các thầy truyền lại những kiến thức mỹ thuật và hội họa cho viện bảo tàng này để nuôi dưỡng thế hệ sau.
Sau bài toán thiết kế và xây dựng, tấm chi phiếu (chắc là rất lớn) của Baron Thyssen lập tức giải quyết bước đầu của bài toán điều hành. Và năm sau, 1988, đức Đạt Lai Lạt Ma đã gặp cả gia đình của nhà kinh doanh hằng tâm này. Cũng từ đấy, gia đình Thyssen còn tổ chức nhiều cuộc triển lãm quốc tế để dân Tây Tạng giới thiệu hội họa và mỹ thuật của họ cho cả thế giới.
Những quan hệ ấy đã nuôi sống, từ tiền bạc đến phần hồn, phần nghệ thuật và văn hoá, của Viện Norbulingka.
Đây là nơi mà tinh hoa Tây Tạng được lưu giữ, truyền bá và các họa sư, nghệ sĩ đích thực của Tây Tạng có nơi thi thố tài năng và đào luyện các thế hệ nghệ nhân nối tiếp. Mỹ nghệ phẩm đủ loại và nhất là các tượng Phật và tranh thờ của Tây Tạng (gọi là thangka) do Norbulingka sản xuất là loại hàng siêu hạng về nghệ thuật và phẩm chất.
Cực đắt mà cực đẹp.
Trong khuôn viên của Viện Norbulingka, người ta cũng thấy ra nét mỹ thuật tinh vi trau chuốt của Tây Tạng, không thua kém bất cứ một Thiền viên, một vườn Thiền, nào của Nhật Bản. Mà hoàn toàn khác hẳn mỹ thuật Trung Hoa.Từ Dharamsala đi Norbulingka người ta mất chừng nửa tiếng xe lam, hay nửa ngày đi bộ, mất thêm chừng vài ký mỡ dư thừa trong thân thể. Nhưng quả là đáng xem. Nếu có một nơi khả dĩ minh chứng rằng văn hoá mỹ thuật Tây Tạng không hề bị mai một thì đấy là Viện Norbulingka.
Người viết đã tới một lần và hôm sau còn một mình quay lại mất nửa ngày để xem cho hết. Không thể xem hết được, nhưng sự cảm phục thì còn mãi cho đến nay. Vì vậy mới có bài này...