Bản tiếng Việt: Thúy Chi - IRS/SPEC
Cơ quan chủ quản các xí nghiệp hoặc chủ nhân các dịch vụ và cơ sở kinh doanh thường dựa vào nhiều lý do để không thực hiện việc tạm thu tiền thuế từ lương của công nhân viên hay có tạm thu tiền thuế nhưng không nộp cho chính phủ ngay. Một số chủ nhân/cơ sở kinh doanh cho rằng họ có thể mượn tạm tiền thuế của chính phủ như vay tiền ngân hàng trong một thời gian ngắn rồi hoàn lại sau. Một số khác có thể ở trong tình trạng tài chính bị thiếu hụt nên khi thu được tiền thuế tạm thu của nhân viên họ không đóng ngay cho Sở Thuế Vụ mà tạm thời sử dụng vào mục đích riêng. Một số ít người khác lại có những hành vi liên quan đến những kiểu lập luận khác hẳn các quy định của luật pháp về vấn đề thuế vụ v.v. Dù với bất kỳ lý do gì, người đóng thuế cần hiểu rõ rằng luật Liên bang yêu cầu các chủ cơ quan phải thu thuế từ lương của công nhân viên và nộp số tiền thuế họ đã thu được cho chính phủ.
Thuế thu từ lương (employment tax) gồm thuế lợi tức đóng cho chính phủ Liên bang, thuế ASXH, thuế y tế, và thuế trợ cấp thất nghiệp. Ngoài ra, một số các tiểu bang còn quy định các cơ quan chủ quản phải thu thêm một số các khoản thuế lao động khác, như các khoản đóng góp vào quỹ hưu bổng hoặc các khoản bồi thường phúc lợi cho nhân viên (contributions to a worker"s compensation fund). Khi chủ nhân không khai báo và nộp đầy đủ các khoản thuế tạm thu hoặc không nộp các khoản tiền thuế đã thu cho chính phủ, hành động này sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao động khi họ khai nhận các khoản phúc lợi thuộc các chương trình trợ cấp của chính phủ trong tương lai.
Sở Thuế Vụ hiện đang tiến hành nhiều biện pháp khác nhau để giải quyết tình trạng không tuân thủ việc thu và nộp các khoản tiền thuế lao động của công nhân viên chức. Các hoạt động mang tính dân sự được áp dụng như kiểm toán hồ sơ thuế, nộp hồ sơ xin lệnh tịch thu tài sản của người thiếu thuế. Ngoài ra, song song với các biện pháp này,bộ phận điều tra hình sự của Sở Thuế Vụ cũng đồng thời kết hợp điều tra và đề nghị các cơ quan liên ngành khác cùng phối hợp để đủ chứng cứ truy tố các cá nhân và các cơ sở kinh doanh đã cố tình không khai và nộp các khoản thuế lao động như quy định. Những nỗ lực kể trên đã đưa đến kết quả nhiều người đã chính thức bị kết án và buộc phải đóng phạt cũng như phải vào tù.
Trong ba năm vừa qua đã có 117 người phải vào các nhà tù Liên bang hoặc trong các khu tập trung cách ly với gia đình và xã hội dành cho những người vi phạm luật hình sự liên quan đến việc thu thuế lao động. Khoảng 77% những người bị kết án trốn đóng thuế lao động phải chịu mức phạt 17 tháng tù giam và bồi thường các khoản tiền thuế và tiền lãi cùng các khoản tiền phạt.
Quý vị có thể đọc và tham khảo các vụ án gần đây liên quan đến các vụ khởi tố thuế vụ trên mạng thông tin của Sở Thuế Vụ tại địa chỉ www.irs.gov. Quý vị có thể vào các mạng thông tin nối kết với các vụ án liên quan đến việc tạm thu tiền thuế lao động được tóm tắt dưới các dạng tội phạm dưới đây. Sở Thuế Vụ khuyến khích và mong mỏi các cơ quan cũng như chủ nhân các xí nghiệp tránh đừng để bị dính líu đến hoặc trở thành nạn nhân của các hoạt động phạm pháp này. Phổ biến hiện nay là 8 hình thức vi phạm việc tuân thủ đóng và thu thuế lao động bao gồm:
1. Pyramiding.
"Pyramiding" là tên gọi các khoản tiền thuế lao động được chủ nhân thu giữ từ lương của nhân viên cho các khoản thuế lợi tức tạm thu, nhưng không được chuyển và giao nộp cho Sở Thuế Vụ. Pyramiding do đó là một hành vi phạm pháp xảy ra ở ở các cơ quan nơi chủ nhân có thu giữ các khoản thuế lao động của nhân viên nhưng cố ý không giao hay ký thác các khoản thuế tạm thu đó vào tài khoản của IRS. Nguyên nhân dẫn đến trường hợp này thường do thiếu vốn hoặc lãi không đủ để chủ nhân hay cơ quan bù vào các chi phí hoạt động kinh doanh, vì vậy chủ nhân buộc phải sử dụng quỹ tín dụng thuế tạm thu để trang trải các khoản nợ khác. Các khoản tiền thuế tạm thu này chủ nhân phải nộp cho chính phủ hằng quý tồn đọng (accumulate) hay chất đống (pyramid) trong chừng mực người chủ hy vọng sẽ có tiền để đóng bù vào khoản thuế họ chưa nộp. Nhưng thường thường các cơ sở kinh doanh liên quan đến việc bê bối này thường phải đóng cửa hoặc nộp đơn xin phá sản và bắt đầu một công ty kinh doanh mới dưới tên kinh doanh mới để bắt đầu lại một quá trình vi phạm khác.
2. Unreliable Third Party Payers.
"Unreliable Third Party Payers" là pháp nhân thủ vai người đại diện cho cơ quan để đóng thuế cho chính phủ. Có hai loại pháp nhân đại diện đóng thuế chủ yếu: (1) Bộ phận cung cấp dịch vụ làm bảng lương cho nhân viên - Payroll Service Providers, và (2) Các tổ chức chủ quản chuyên nghiệp - Professional Employer Organizations.
§ Các cơ quan chuyên môn cung cấp dịch vụ lương bổng cho nhân viên thường đảm trách việc nộp hồ sơ khai thuế lao động cho chủ các cơ sở dịch vụ, kinh doanh và nộp các khoản tiền thuế lao động thu được cho chính phủ.
§ Các tổ chức chủ quản chuyên nghiệp thực hiện việc cho thuê nhân công (offer employee leasing), nghĩa là các cơ quan này đảm trách các chức năng hành chính, nhân sự và kế toán lương bổng cho các công nhân viên họ cho các cơ quan khác thuê để thực hiện các dịch vụ kinh doanh. Nhiều cơ quan chủ quản chuyên nghiệp đã thực hiện và cung cấp các hợp đồng rất có hiệu quả cho chủ các cơ quan kinh doanh và xí nghiệp, nhưng trong một số các trường hợp, các công ty của cả đôi bên đều đã vi phạm các quy định đóng các khoản thuế lao động tạm thu cho Sở Thuế Vụ. Khi các công ty cung cấp dịch vụ lao động này bị giải tán, hằng triệu đô-la tiền thuế lao động họ đã thu giữ từ lương của người lao động không thể thanh toán.
Do đó, Sở Thuế Vụ khuyến khích các cơ quan và chủ nhân các xí nghiệp và các cơ sở kinh doanh nên kiểm tra kỹ lưỡng sổ sách báo cáo tài chính của các cơ quan cung cấp dịch vụ lao động chuyên nghiệp cũng như chọn lựa kũ càng các cơ quan ngày trước khi ký hợp đồng nhận dịch vụ của họ.
Chẳng hạn, khi chọn công ty đối tác để giúp phụ trách vấn đề nhân lực và sổ sách kế toán của nhân viên, chủ cơ quan nên chú ý đến thành tích và quá trình sử dụng hệ thống đóng thuế tự động của chính phủ Liên bang (EFTPS - the Electronic Federal Tax Payment System). Hệ thống này giúp các cơ quan và chủ nhân các xí nghiệp xác định các khoản tiền thuế cơ quan đại diện của họ đã đóng cho chính phủ. Đồng thời, điều quan trọng hơn nữa là các cơ quan cũng như các chủ xí nghiệp đừng bao giờ cho phép cơ quan đại diện là người hay pháp nhân duy nhất nhận các báo cáo tài chính của IRS. Nói cách khác, chủ cơ quan không nên chuyển địa chỉ của người nhận các báo cáo tài chính của IRS sang địa chỉ của người đại diện.
3. Frivolous Arguments.
"Frivolous arguments" là lối tranh luận ngớ ngẩn, vô lý của cá nhân và cả bọn khuyến dụ thiếu đạo đức. Bọn này thường sử dụng cách giải thích sai lệch để không phải đóng các khoản tiền thuế lao động cho chính phủ. Những hành vi sai phạm này dựa vào những lời diễn giải vô căn cứ về điều khoản 861 (Section 861) và các đoạn khác thuộc bộ luật thuế. Tất cả những lạp luận và lý lẽ của bọn chúng đã hoàn toàn bị Tòa Án bác bỏ.
Một dạng hoạt động khác của trò bịp bợm này có liên quan đến việc sử dụng không đúng cách mẫu đơn 941c. Mẫu đơn 941c làbản tường trình bổ xung để điều chỉnh các thông tin đã khai trên mẫu đơn 941, với nỗ lực nhận được tiền refund từ các khoản thuế lao động đã đóng trước đó (Form 941c - Supporting Statement to Correct Information on Form 941). Những vụ án gần đây đã xử vi phạm luật hình sự đối với bọn xúi giục cũng như bọn điều hành trò bịp bợm kể trên. Cơ quan nào hoặc chủ nhân nào đã có liên can đến các quá trình lừa bịp này cũng vẫn có thể phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về các khoản tiền thuế phải trả lại cho IRS cùng những khoản thuế lao động đã thu giữ trái phép, các khoản tiền lãi phát sinh trên các khoản tiền này cũng như các khoản tiền phạt do vi phạm việc đóng thuế.
(Tiếp theo kỳ sau: 5 hình thức vi phạm các quy định thu giữ tiền thuế lao động của công nhân viên)