Muốn biết những tiếng nói nhỏ đó có ảnh hưởng ra sao, hãy nhìn xem nó đã làm một chế độ cai trị sợ hãi đến độ nào để phải ra tay đàn áp. Hồi cuối tháng Ba nhà cầm quyền CSVN đã bắt giam bác sĩ Phạm Hồng Sơn chỉ vì ông đã dịch và cho phổ biến trên mạng lưới Internet tài liệu về Dân chủ và Nhân quyền lấy từ trang nhà của tòa đại sứ Hoa Kỳ tại Hà Nội. Trước đó 3 tuần, ông Sơn đã gửi đến Tổng bí thư Nông Đức Mạnh bài viết có tựa đề "Những dấu hiệu hứa hẹn cho nền Dân chủ Việt Nam", nhưng bức thư chìm nghỉm như rơi xuống một vực thẳm u tối không tên. Vụ bắt giam Phạm Hồng Sơn đã khiến Nhóm Phóng Viên Không Biên Giới (RSF tức Reporters Sans Frontières) trụ sở tại Paris có phản ứng mạnh, lên tiếng đòi nhà cầm quyền Hà Nội phải phóng thích ngay ông Sơn và đồng thời tố cáo vụ bắt giam trong vòng một tháng vừa qua hai người khác là nhà luật học kiêm giáo sư điện toán Lê Chí Quang và nhà trí thức lão thành Trần Khuê và đòi phải phóng thích cả hai ông này, vì họ chỉ nêu quan điểm về bản hiệp ước trên bộ và trên biển Hà Nội đã ký kết với với Trung Quốc. Ông Quang đã từng viết bài "Hãy Cảnh giác với Bắc triều" và ông Khuê đã viết một bức thư ngỏ gửi Giang Trạch Dân khi ông này đến thăm Hà Nội.
Tất cả 3 người nói trên đều không phải là phóng viên hay ký giả nhưng RSP đã lên tiếng bênh vực họ chỉ vì một nguyên tắc căn bản: quyền tự do ngôn luận. Đó là một thứ quyền quan trọng nhất trong các quyền của mọi con người chớ không phải chỉ riêng của ký giả. Cho đến nay, các tổ chức Nhân quyền đã lên tiếng rất nhiều về các vụ bắt giữ hay đàn áp, rình mò theo dõi gây nhiều chuyện phiền hà cho những nhân vật đối kháng chế độ ở Việt Nam trong số có các nhà văn, nhà báo, học giả, trí thức kể cả những người đã thoát ly ra khỏi đảng, nhưng lần này tiếng nói của những Ký giả Không Biên giới đáng chú ý vì ba người mới bị bắt chỉ có phạm một tội là "bầy tỏ ý kiến một cách ôn hòa", chớ không thể chụp cho họ tội danh quen thuộc là "âm mưu lật đổ hay vi phạm an ninh quốc gia". Rồi đây nếu chế độ Hà Nội có bịa ra được một tội danh nào khác cũng đã muộn vì sự thật đã phơi bầy ra đó, không cách nào che đậy được.
Sự thật đó đã phản lại những lời Hà Nội vẫn rêu rao mọi người dân đều có quyền phát biểu ý kiến và nói không hề có vi phạm nhân quyền, chỉ có những kẻ phạm pháp bị bắt. Nhưng tại sao Hà Nội bỗng thấy sợ" Lý do có thể là vì sắp đến ngày bầu cử Quốc hội, một cuộc bầu cử dù có được kiểm soát kỹ càng, nhưng trong thời thế hiện nay rất có thể bầu cử sẽ là cơ hội để nhiều tiếng nói tự do khác được tung ra ngoài không cách nào kiểm soát nổi. Và khi có các phe phái trong đảng muốn tranh nhau để cho người của phe đại diện trong Quốc hội, các cuộc khẩu chiến sẽ có thể bùng nổ ra ngoài phạm vi đảng dự liệu. Lý do thứ hai là sự nở rộ của mạng lưới Internet. Cả ba ông bị bắt đều đã dùng mạng luới Internet để phổ biến tư tưởng của họ. Nếu chế độ Cộng sản cho rằng chỉ cần bắt 3 ông này mà có thể kiểm soát được Internet, họ đã nhầm lẫn tai hại.
Hà Nội đã chấp nhận cho các dịch vụ móc vào mạng luới quốc tế Internet từ nhiều năm qua vì nhu cầu kinh doanh và đầu tư trong thời đại đổi mới kinh tế. Họ vẫn tìm cách ngăn chặn, kiểm soát những tin tức độc hại cho chế độ trên mạng lưới này, nhưng không có bao nhiêu hiệu quả. Từ ngày thương ước Mỹ-Việt được thi hành, Internet càng nở rộ mạnh hơn ở Việt Nam và sự kiểm soát càng khó khăn hơn trước. Bây giờ nếu các nhà trí thức dùng Internet để phổ biến những bài viết của họ, lỗi tại ai" Lỗi tại những người cầm quyền chớ không phải tại họ. Khi Việt Nam không có tự do báo chí, tự nhiên báo chui, báo lậu phải mọc ra như nấm chớ có gì lạ. Không thể bưng bít bỏ tù tư tưởng con người, tự nó sẽ tìm cách chui ra ngoài. Chúng tôi nghĩ kinh tế càng phát triển, báo chui càng nở rộ và mạng luới Internet càng có nhiều lỗ hổng, không có cách nào bưng bít được. Và những báo chui báo lậu này còn tác hại hơn nhiều so với một nền báo chí tự do công khai dưới một chế độ cai trị thực sự thượng tôn luật pháp. Một khi đã bắt buộc phải chấp nhận kinh tế thị trường và tự do kinh doanh, một chế độ cảnh sát trị chỉ có sa lầy chớ không thể nào hơn một chế độ cai trị bằng luật pháp.
Nhưng tại sao những tiếng nói đơn độc như các ông Sơn, Quang và Khuê lại được thế giới bên ngoài coi trọng" Ở hải ngoại không thiếu gì những lời đả kích lên án và tố cáo với những lời lẽ gay gắt và nặng nề nhất đối với việc làm của Cộng sản trong nước. Nhưng tố cáo thóa mạ bọn Cộng sản khi đã ở ngoài bàn tay sắt của chúng là chuyện dễ, ai cũng có thể làm được. Khi còn ở trong lòng bàn tay của chúng, làm được như vậy mới là chuyện khó. Phải có một sự can đảm và quyết tâm phi thường mới làm được. Những tiếng nói phản kháng từ trong nước đưa ra thường được bên ngoài chú ý nhiều hơn là vì thế.
Tiếng nói có giá trị vẫn tùy ở nơi và hoàn cảnh xuất phát. Những tiếng nói từ bên trong thường khi ôn hòa nhã nhặn, đó không phải vì người bên trong sợ mà không dám nói nặng. Thật ra những bàn tay sắt bọc nhung vẫn thấm thía hơn và được cảm tình của dư luận thế giới bên ngoài, cần chi đến đao to búa lớn.