Hỏi (Ông Phan T.A.): Cách đây gần 4 tuần lễ, vào lúc 9 giờ 30 sáng, tôi nghe tiếng gõ cửa dồn dập, tôi bèn hỏi để biết người gõ của là ai thì có tiếng trả lời là police. Tôi bèn hỏi là họ cần kiếm ai, thì được trả lời là họ có trát lục xét nhà.
Sau khi nhìn vào chốt cửa và nhận được tấm trát xét nhà được chuồi vào bên dưới cửa, và trong trát tòa cho biết là họ muốn tìm xét các máy notebook computer tôi bèn mở cửa để họ vào vì không muốn gặp rắc rối. Hơn nữa tôi cũng chẳng có gì phải lo sợ vì tôi nghĩ là từ trước tới giờ tôi chưa bao giờ làm gì phạm pháp cả.
Sau gần 20 phút lục xét nhà cửa, họ đã tìm thấy 3 máy notebook computer của tôi. Họ hỏi tôi biên nhận của 3 cái máy đó. Tôi cố tìm kiếm nhưng tôi không thể kiếm được vào lúc đó. Thế là họ bèn lập biên bản và tịch thâu đồng thời mời tôi về đồn cảnh sát để thẩm vấn.
Khi thẩm vấn tôi đã cho cảnh sát biết là tôi mua 3 chiếc máy này lại của một người gõ cửa nhà tôi và muốn bán lại máy mà anh ta đã xử dụng qua một thời gian ngắn cho thương vụ của anh ta.
Cảnh sát hỏi lý do tại sao đương sự biết nhà tôi để đến bán máy. Tôi cho cảnh sát biết là tôi không thể trả lời câu hỏi đó được. Có lẽ vì thỉnh thoảng tôi đi sửa máy vi tính nên có thể một người nào đó giới thiệu ông ta lại bán cho tôi. Họ bèn hỏi tôi có biết tên và địa chỉ người đó không" Tôi trả lời là hoàn toàn không biết tên thật của ông ta, vì ông ta tực xưng là David. Họ bèn hỏi tôi là tôi có biên nhận nhận hay không. Tôi trả lời là có nhưng hiện giờ tôi không biết là tôi đã cất ở đâu"
Sau khi thẩm vấn họ bèn cáo buộc tôi về tội “receiving.” Tuy thế, tôi đã được cho phép tại ngoại để chờ ngày hầu tòa.
Hai ngày sau, tôi đã tìm lục được biên nhận viết tay của ông David. Tôi có mang biên nhận lại cho đồn cảnh sát, nhưng đã được trả lời là tôi nên ra tòa để trình bày điều đó.
Tôi đã ra hầu tòa và không chịu nhận tội, tòa đã dời lại đến cuối tháng giêng sang năm sẽ xét xử.
Xin LS cho biết là trong tình huống vừa kể trên, tôi có bị buộc vào tội trạng vừa nêu hay không"
Trả lời: Trước khi trả lời câu hỏi nêu trên, thiết tưởng chúng ta nên tìm hiểu luật pháp định nghĩa thế nào là tội “receiving = receiving stolen goods or property” (oa trữ đồ gian).
Receiving stolen goods or property (tội oa trữ đồ gian, tội oa trữ hàng hóa hoặc tài sản ăn cắp, tội chứa chấp hàng hóa hoặc tài sản ăn cắp): Nhóm từ được dùng để chỉ tội chứa chấp bất cứ tài sản hoặc hàng hóa nào với sự nhận biết được rằng món đồ đó đã được ăn cắp, hoặc đã được thâu đoạt hoặc đã được lấy một cách bất hợp pháp. Bốn yếu tố cấu thành tội oa trữ đồ gian là: 1) tài sản phải được tiếp nhận; 2) tài sản đó phải là tài sản ăn cắp; 3) người nhận phải nhận biết được rằng đó là tài sản ăn cắp; và 4) ý định của đương sự để nhận tài sản đó phải là một ý định gian trá. (The phrase used to refer to offence of receiving any property or goods with the knowledge that it has been stolen, or unlawfully obtained or taken. Four elements which constitute crime of receiving stolen property: 1) the property must be received; 2) it must be stolen property; 3) the receiver must have knowledge that it is stolen property; and 4) his intent to receive that property must be fraudulent).
Để có thể kết buộc một người về tội “oa trữ đồ gian,” công tố viện phải chứng minh rằng hành động phạm pháp và ý định phạm tội của bị can đã hội đủ các yếu tố vừa nêu.
Trong vụ R v. Dykyj (1993) 29 NSWLR 672. Trong vụ đó, vào tháng 3 năm 1992 bị cáo đã bị xét xử tại tòa án vùng Penrith về hai tội oa trữ đồ gian.
Tội thứ nhất xảy ra vào tháng 11 năm 1988, khi bị cáo mua một chiếc “xe bốc dỡ hàng” (forklift) mà biết rằng chiếc xe đó là xe ăn cắp. Tội thứ hai xảy ra vào tháng 12 năm 1988 khi bị cáo mua các đồ phụ tùng mà biết được rằng các đồ đó là đồ ăn cắp.
Bị cáo đã bị kết án 3 năm tù ở cho tội thứ nhất, và 2 năm tù ở cho tội thứ 2, hai bản án này được thụ hình chung. Sau khi bị kết tội, bị cáo đã ở tù một thời gian rồi sau đó được tại ngoại chờ kháng án.
Vào lúc xử án, không có sự tranh cãi là chiếc xe forklift đã bị mất cắp. Vấn đề được đặt ra là liệu bị cáo khi mua chiếc xe có biết là chiếc xe bị ăn cắp hay không" Thoạt tiên bị cáo cho biết là mua chiếc xe từ một người đàn ông có tên là Tom Jenkins mang đến “bãi bán đồ phế thãi” (wrecking yard) của bị cáo để bán với giá $4,000 nhưng sau đó nói là $6,000 và không lấy biên nhận. Cảnh sát cũng như bị cáo không biết Jenkins hiện ở đâu.
Vào lúc xét xử, bị cáo đã xuất trình biên nhận có tên là Tom Jenkins, và trên biên nhận đã ghi là “Tôi xác nhận rằng tôi đã bán cho Apin Place Wreckers một chiếc xe bốc dỡ hàng hiệu Hyster với số tiền là $6,000. Không bảo đảm. Đã nhận $4,000 tiền cọc, Số tiền còn lại phải trả là $2,000” (I do certify that I sold Apin Place Wreckers one Hyster Forklift for the sum of $6,000. No warranty. $4,000 deposit received. A balance of $2,000 to be paid).
Công tố viện cho rằng đây là biên nhận giả. Tuy nhiên, bị cáo đã cho rằng vị thẩm phán tọa xử đã hướng dẫn sai lạc bồi thẩm đoàn nên đã kháng án.
Vào lúc xử án công tố viện đã thôi thúc bồi thẩm đoàn rằng: nếu quý vị thấy rằng vào lúc thâu đoạt tài sản bị cáo tin rằng tài sản là đồ ăn cắp và “cố ý tảng lờ không thèm lưu ý đến sự kiện” (wilfully closed his eyes to facts) mà một người bình thường nghĩ rằng đó là đồ ăn cắp thì điều đó đủ để kết tội.
Vị thẩm phán tọa xử đã hướng dẫn bồi thẩm đoàn như sau: để có thể buộc tội oa trữ đồ gian, không cần thiết là bị cáo phải chính mắt trông thấy đồ vật đã bị ăn cắp. Thực ra thì bị cáo không cần phải biết đồ vật do ai ăn cắp và ăn cắp hồi nào... nếu quý vị nhận thấy rằng tình huống mà trong đó bị cáo nhận đồ là một tình huống mà bị cáo tin rằng hàng hóa là đồ ăn cắp là đủ. Nếu bị cáo tắc trách không lưu ý đến đó là đồ ăn cắp thì không thể buộc tội đương sự. Tuy nhiên, nếu tảng lờ không thèm lưu ý đến các sự kiện mà một người bình thường sẽ nghĩ rằng đó là đồ ăn cắp thì quý vị có thể buộc tội đương sự.
Vấn đề đặt ra ở đây, trong trường hợp này, là vị thẩm phán tọa xử đã nhấn mạnh vào chi tiết mà công tố viện đã đưa ra. Điều này đã chuyển đổi sự suy tưởng của bồi thẩm đoàn “về câu hỏi có tính cách chủ quan” (the subjective question) mà bồi thẩm đoàn phải tự đặt ra cho chính họ, và làm cho họ nghĩ rằng họ có thể xử dụng “sự thẩm định có tính cách khách quan” (an objective test). Cuối cùng Tòa Kháng Án đã ra lệnh tái thẩm.
Dựa vào luật pháp cũng như phán quyết vừa trưng dẫn, ông có thể thấy được rằng việc kết buộc ông vào “tội oa trữ đồ gian” đòi hỏi công tố viện phải chứng minh rằng vào lúc thâu đoạt hàng hóa ông đã biết được rằng đó là đồ ăn cắp. Điều này thực là phức tạp và khó khăn cho công tố viện.
Nếu đúng như những gì ông tường thuật ở trong thư, tôi nghĩ rằng ngoại trừ công tố viện chuyển đổi tội danh bằng cách cáo buộc ông về một tội nhẹ hơn, đó là tội “goods in custody” (tội oa trữ đồ tình nghi là đồ gian), tòa sẽ không còn cách nào khác hơn là phải tha bổng cho ông.
Nếu còn thắc mắc xin gọi điện thoại để được giải đáp. Chúc ông may mắn.
Sau khi nhìn vào chốt cửa và nhận được tấm trát xét nhà được chuồi vào bên dưới cửa, và trong trát tòa cho biết là họ muốn tìm xét các máy notebook computer tôi bèn mở cửa để họ vào vì không muốn gặp rắc rối. Hơn nữa tôi cũng chẳng có gì phải lo sợ vì tôi nghĩ là từ trước tới giờ tôi chưa bao giờ làm gì phạm pháp cả.
Sau gần 20 phút lục xét nhà cửa, họ đã tìm thấy 3 máy notebook computer của tôi. Họ hỏi tôi biên nhận của 3 cái máy đó. Tôi cố tìm kiếm nhưng tôi không thể kiếm được vào lúc đó. Thế là họ bèn lập biên bản và tịch thâu đồng thời mời tôi về đồn cảnh sát để thẩm vấn.
Khi thẩm vấn tôi đã cho cảnh sát biết là tôi mua 3 chiếc máy này lại của một người gõ cửa nhà tôi và muốn bán lại máy mà anh ta đã xử dụng qua một thời gian ngắn cho thương vụ của anh ta.
Cảnh sát hỏi lý do tại sao đương sự biết nhà tôi để đến bán máy. Tôi cho cảnh sát biết là tôi không thể trả lời câu hỏi đó được. Có lẽ vì thỉnh thoảng tôi đi sửa máy vi tính nên có thể một người nào đó giới thiệu ông ta lại bán cho tôi. Họ bèn hỏi tôi có biết tên và địa chỉ người đó không" Tôi trả lời là hoàn toàn không biết tên thật của ông ta, vì ông ta tực xưng là David. Họ bèn hỏi tôi là tôi có biên nhận nhận hay không. Tôi trả lời là có nhưng hiện giờ tôi không biết là tôi đã cất ở đâu"
Sau khi thẩm vấn họ bèn cáo buộc tôi về tội “receiving.” Tuy thế, tôi đã được cho phép tại ngoại để chờ ngày hầu tòa.
Hai ngày sau, tôi đã tìm lục được biên nhận viết tay của ông David. Tôi có mang biên nhận lại cho đồn cảnh sát, nhưng đã được trả lời là tôi nên ra tòa để trình bày điều đó.
Tôi đã ra hầu tòa và không chịu nhận tội, tòa đã dời lại đến cuối tháng giêng sang năm sẽ xét xử.
Xin LS cho biết là trong tình huống vừa kể trên, tôi có bị buộc vào tội trạng vừa nêu hay không"
Trả lời: Trước khi trả lời câu hỏi nêu trên, thiết tưởng chúng ta nên tìm hiểu luật pháp định nghĩa thế nào là tội “receiving = receiving stolen goods or property” (oa trữ đồ gian).
Receiving stolen goods or property (tội oa trữ đồ gian, tội oa trữ hàng hóa hoặc tài sản ăn cắp, tội chứa chấp hàng hóa hoặc tài sản ăn cắp): Nhóm từ được dùng để chỉ tội chứa chấp bất cứ tài sản hoặc hàng hóa nào với sự nhận biết được rằng món đồ đó đã được ăn cắp, hoặc đã được thâu đoạt hoặc đã được lấy một cách bất hợp pháp. Bốn yếu tố cấu thành tội oa trữ đồ gian là: 1) tài sản phải được tiếp nhận; 2) tài sản đó phải là tài sản ăn cắp; 3) người nhận phải nhận biết được rằng đó là tài sản ăn cắp; và 4) ý định của đương sự để nhận tài sản đó phải là một ý định gian trá. (The phrase used to refer to offence of receiving any property or goods with the knowledge that it has been stolen, or unlawfully obtained or taken. Four elements which constitute crime of receiving stolen property: 1) the property must be received; 2) it must be stolen property; 3) the receiver must have knowledge that it is stolen property; and 4) his intent to receive that property must be fraudulent).
Để có thể kết buộc một người về tội “oa trữ đồ gian,” công tố viện phải chứng minh rằng hành động phạm pháp và ý định phạm tội của bị can đã hội đủ các yếu tố vừa nêu.
Trong vụ R v. Dykyj (1993) 29 NSWLR 672. Trong vụ đó, vào tháng 3 năm 1992 bị cáo đã bị xét xử tại tòa án vùng Penrith về hai tội oa trữ đồ gian.
Tội thứ nhất xảy ra vào tháng 11 năm 1988, khi bị cáo mua một chiếc “xe bốc dỡ hàng” (forklift) mà biết rằng chiếc xe đó là xe ăn cắp. Tội thứ hai xảy ra vào tháng 12 năm 1988 khi bị cáo mua các đồ phụ tùng mà biết được rằng các đồ đó là đồ ăn cắp.
Bị cáo đã bị kết án 3 năm tù ở cho tội thứ nhất, và 2 năm tù ở cho tội thứ 2, hai bản án này được thụ hình chung. Sau khi bị kết tội, bị cáo đã ở tù một thời gian rồi sau đó được tại ngoại chờ kháng án.
Vào lúc xử án, không có sự tranh cãi là chiếc xe forklift đã bị mất cắp. Vấn đề được đặt ra là liệu bị cáo khi mua chiếc xe có biết là chiếc xe bị ăn cắp hay không" Thoạt tiên bị cáo cho biết là mua chiếc xe từ một người đàn ông có tên là Tom Jenkins mang đến “bãi bán đồ phế thãi” (wrecking yard) của bị cáo để bán với giá $4,000 nhưng sau đó nói là $6,000 và không lấy biên nhận. Cảnh sát cũng như bị cáo không biết Jenkins hiện ở đâu.
Vào lúc xét xử, bị cáo đã xuất trình biên nhận có tên là Tom Jenkins, và trên biên nhận đã ghi là “Tôi xác nhận rằng tôi đã bán cho Apin Place Wreckers một chiếc xe bốc dỡ hàng hiệu Hyster với số tiền là $6,000. Không bảo đảm. Đã nhận $4,000 tiền cọc, Số tiền còn lại phải trả là $2,000” (I do certify that I sold Apin Place Wreckers one Hyster Forklift for the sum of $6,000. No warranty. $4,000 deposit received. A balance of $2,000 to be paid).
Công tố viện cho rằng đây là biên nhận giả. Tuy nhiên, bị cáo đã cho rằng vị thẩm phán tọa xử đã hướng dẫn sai lạc bồi thẩm đoàn nên đã kháng án.
Vào lúc xử án công tố viện đã thôi thúc bồi thẩm đoàn rằng: nếu quý vị thấy rằng vào lúc thâu đoạt tài sản bị cáo tin rằng tài sản là đồ ăn cắp và “cố ý tảng lờ không thèm lưu ý đến sự kiện” (wilfully closed his eyes to facts) mà một người bình thường nghĩ rằng đó là đồ ăn cắp thì điều đó đủ để kết tội.
Vị thẩm phán tọa xử đã hướng dẫn bồi thẩm đoàn như sau: để có thể buộc tội oa trữ đồ gian, không cần thiết là bị cáo phải chính mắt trông thấy đồ vật đã bị ăn cắp. Thực ra thì bị cáo không cần phải biết đồ vật do ai ăn cắp và ăn cắp hồi nào... nếu quý vị nhận thấy rằng tình huống mà trong đó bị cáo nhận đồ là một tình huống mà bị cáo tin rằng hàng hóa là đồ ăn cắp là đủ. Nếu bị cáo tắc trách không lưu ý đến đó là đồ ăn cắp thì không thể buộc tội đương sự. Tuy nhiên, nếu tảng lờ không thèm lưu ý đến các sự kiện mà một người bình thường sẽ nghĩ rằng đó là đồ ăn cắp thì quý vị có thể buộc tội đương sự.
Vấn đề đặt ra ở đây, trong trường hợp này, là vị thẩm phán tọa xử đã nhấn mạnh vào chi tiết mà công tố viện đã đưa ra. Điều này đã chuyển đổi sự suy tưởng của bồi thẩm đoàn “về câu hỏi có tính cách chủ quan” (the subjective question) mà bồi thẩm đoàn phải tự đặt ra cho chính họ, và làm cho họ nghĩ rằng họ có thể xử dụng “sự thẩm định có tính cách khách quan” (an objective test). Cuối cùng Tòa Kháng Án đã ra lệnh tái thẩm.
Dựa vào luật pháp cũng như phán quyết vừa trưng dẫn, ông có thể thấy được rằng việc kết buộc ông vào “tội oa trữ đồ gian” đòi hỏi công tố viện phải chứng minh rằng vào lúc thâu đoạt hàng hóa ông đã biết được rằng đó là đồ ăn cắp. Điều này thực là phức tạp và khó khăn cho công tố viện.
Nếu đúng như những gì ông tường thuật ở trong thư, tôi nghĩ rằng ngoại trừ công tố viện chuyển đổi tội danh bằng cách cáo buộc ông về một tội nhẹ hơn, đó là tội “goods in custody” (tội oa trữ đồ tình nghi là đồ gian), tòa sẽ không còn cách nào khác hơn là phải tha bổng cho ông.
Nếu còn thắc mắc xin gọi điện thoại để được giải đáp. Chúc ông may mắn.
Gửi ý kiến của bạn