Nhiều chỉ dấu kinh tế tại Hoa Kỳ đã có thể báo hiệu sự phục hồi sau ba năm đình trệ. Đó là tin mừng cho người sống tại Mỹ, nhưng phục hồi này có ảnh hưởng gì tới kinh tế của các nước khác không"
Đài RFA trao đổi về vấn đề trên với kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa như sau.
Hỏi: Thưa ông Nguyễn Xuân Nghĩa, một số chỉ dấu đã báo hiệu sự phục hồi của kinh tế Hoa Kỳ, và tuần qua, Bộ trưởng Ngân khố Mỹ, ông John Snow nêu dự đoán là đến cuối năm 2003 này, kinh tế Mỹ có thể đạt tốc độ tăng trưởng là 4%. Á châu vốn chịu ảnh hưởng rất mạnh của sự thăng trầm kinh tế tại Hoa Kỳ nên theo dõi việc này rất sát và dư luận tự hỏi là dấu hiệu phục hồi này có khả tín hay không, có đáng tin hay không"
-- Tôi thiển nghĩ là có, và mình phải trở lại từ đầu, từ giữa năm 1991, dưới chính quyền của ông Bush cha, kinh tế Mỹ đã tăng trưởng đều trong một giai đoạn khá lâu, lâu nhất kể từ Đệ nhị Thế chiến. Sau giai đoạn tăng trưởng như vậy, thể nào cũng có lúc đình trệ theo chu kỳ kinh doanh bình thường. Lúc đó, ít ai nghĩ đến chu kỳ kinh doanh vì tưởng là cuộc cách mạng tín học bùng phát từ giữa thập niên 90, sẽ đẩy kinh tế Mỹ vào một thời hoàng kim, thị trường chứng khoán, nhất là của loại công ty có kỹ thuật cao, gọi tắt là “cao kỹ”, hay IT theo Anh ngữ, sẽ kéo kinh tế ra khỏi sức hút của trái đất. Sự lạc quan đó chấm dứt kể từ tháng Ba năm 2000, khi các cổ phiếu bắt đầu sụt giá. Sáu tháng sau đó, kinh tế Mỹ bắt đầu bị trì trệ và có lúc suy trầm. Trì trệ là khi tốc độ tăng trưởng không gia tăng nữa; suy trầm là khi đà tăng trưởng đó giảm sút trong hai quý liền, tức là trong sáu tháng liền, nặng hơn thì là suy thóai. Chín tháng sau vụ đình trệ đó, Hoa Kỳ còn bị nạn khủng bố và những bất ổn kế tiếp, khiến sinh hoạt kinh tế vẫn thiếu khởi sắc, cho đến tháng Ba vừa qua thì mới có dấu hiệu tích cực.
Hỏi: Như vụ sụt giá cổ phiếu năm 2000 ông vừa nói là dấu hiệu trì trệ, dấu hiệu tích cực đó cũng là giá cả trên thị trường chứng khóan đã gia tăng phải không"
-- Vâng, đây là một chỉ dấu đáng theo dõi, vì từ giữa tháng Ba đến nay, các chỉ số cổ phiếu Mỹ, nhất là chỉ số S&P500 có tính chất tiêu biểu cho nhiều cơ sở lớn nhỏ, hơn hẳn chỉ số Dow Jones hay Nasdaq, đã ra khỏi biên độ 770 tới 970 điểm bị khóa trong gần một năm qua, và hôm qua Thứ Hai đã vượt 1.000 điểm, một con số có ảnh hưởng tâm lý đáng kể và chưa từng thấy từ một năm nay. Kinh nghiệm cho thấy là sáu tháng sau một đợt tăng giá cổ phiếu liên tục như vậy thì kinh tế sẽ bắt trớn phục hồi, dù thông tin hàng ngày vẫn đưa ra thống kê tiêu cực của quý trước, khi dân chúng và doanh nghiệp còn phân vân chưa rõ về tình hình Iraq, có chiến tranh hay không, kéo dài lâu hay chóng, hậu quả với giá dầu thô ra sao, quân khủng bố có thể làm gì, v.v... Ngoài ra, mình còn nhiều chỉ dấu khác, thí dụ như phân lời của công khố phiếu và trái phiếu doanh nghiệp, phân lời chứ không phải lãi suất vốn biến chuyển ngược với phân lời, cho thấy các doanh nghiệp có thể đi vay rẻ hơn, điều đó cũng báo hiệu sự phục hồi.
Hỏi: Trước khi nói đến ảnh hưởng của sự phục hồi, xin ông cho biết về những yếu tố đã kéo nền kinh tế Mỹ ra khỏi giai đoạn trì trệ đó.
-- Trước tiên thì sau khi cắt giảm tồn kho và sản xuất dư thừa trong giai đoạn tăng truởng thì có lúc các doanh nghiệp sẽ lại bắt trớn sản xuất và tuyển dụng nhân viên. Đó là yếu tố chính, và đó là sức mạnh thăng hay giáng của thị trường. Ngoài ra, chính quyền cũng có khả năng can thiệp để kích thích sản xuất và tiêu thụ. Về tiền tệ thì hạ lãi suất, là điều Hội đồng Dự trữ Liên bang, nghĩa là Ngân hàng trung ương Mỹ, đã làm và có thể còn làm vào kỳ họp tới, khiến cái giá vay tiền thành rẻ hơn, việc mua bán và sản xuất dễ dàng hơn. Về thuế khóa thì có biện pháp giảm thuế, là điều chính quyền Bush đã làm cách đây đúng hai năm và làm lần thứ nhì cách đây đúng hai tuần. Tiền tệ nhờ đó được bơm vào nền kinh tế nhiều hơn, và kết quả sẽ được thấy trong tương lai không xa. Tuy nhiên, xin nói ngay là đà tăng trưởng này sẽ không cao, ở khoảng 3% một năm là lạc quan. Dù sao, 3% cho một nền kinh tế sản xuất ra hàng năm chừng 10.000 tỷ đô la, cho mức sống dân cư là 35.000 đô la một đầu người thì cũng là đáng kể.
Hỏi: Bây giờ ta mới nói đến ảnh hưởng toàn cầu của đà tăng trưởng này, thưa ông.
-- Vâng, có một điều bất thường và tôi thiển nghĩ là thiếu lành mạnh, khi thế giới bị lệ thuộc quá nhiều vào kinh tế Mỹ. Nước Mỹ sản xuất ra chừng một phần tư sản vật của địa cầu, nhưng đóng góp tới hơn 60% vào đà tăng trưởng của kinh tế thế giới vì là một thị trường lớn lại thiên về tiêu thụ, nên trở thành đầu máy kinh tế cho các nước xuất khẩu. Trong hiện tại, hai đầu máy đáng kể khác là Nhật Bản và Âu châu đều bị suy trầm hoặc trì trệ, cho nên kinh tế thế giới, nhất là kinh tế Đông Á mà chúng ta quan tâm hơn cả, càng lệ thuộc vào sự phục hồi của Hoa Kỳ. Việc kinh tế Mỹ có dấu hiệu khởi sắc vì vậy là tin vui cho châu Á, nhất là trong bối cảnh bất ổn về an ninh, gặp nguy cơ khủng bố và lại còn bị hiệu ứng của dịch bệnh Sars. Tuy nhiên, mình cũng không nên lạc quan lắm về sức kéo của nền kinh tế Mỹ, trong trường kỳ cũng như trong ngắn hạn.
Hỏi: Xin ông nói về những yếu tố ngắn hạn trước, khiến ông không mấy lạc quan.
-- Tôi xin được nói về hai lực đẩy xuất phát từ Hoa Kỳ cho các nền kinh tế khác, đó là thứ nhất, khả năng mua hàng của kinh tế Mỹ, hoặc giá trị xuất khẩu của các nước bán hàng cho thị trường Mỹ, thứ hai là khả năng sinh lời của các doanh nghiệp nước ngòai đầu tư vào thị trường Mỹ. Về ngoại thương hay mậu dịch, các nước xuất khẩu cho Mỹ, nhất là Á châu, có thể kiếm lời nhiều khi Hoa Kỳ nhập khẩu nhiều. Tại châu Á, nguồn lợi lớn khi bán hàng cho Mỹ là bán thiết bị và phụ tùng sản xuất, cụ thể và dễ hiểu là bán máy điện toán cho thị trường Mỹ chẳng hạn. Nguồn lợi đó đáng kể hơn là bán hàng tiêu dùng, và nguồn lợi đó bị sụt tới hơn 20% khi kinh tế Mỹ suy trầm, các công ty Mỹ tiết giảm đầu tư trang thiết bị. Đó là về ngoại thương, về đầu tư, và trường hợp này liên hệ đến Âu châu nhiều hơn Á châu, các nước có đô la đều dồn tiền mua tài sản kinh doanh trong thị trường Mỹ, ngoài cổ phiếu và trái phiếu thì còn có đầu tư trực tiếp, thí dụ như lập cơ sở sản xuất. Tổng số tiền đầu tư trực tiếp các nước trút vào Hoa Kỳ trong năm 2001 là hơn 7.000 tỷ, tăng hơn 12% so với mười năm trước. Các doanh nghiệp thế giới đầu tư vào thị trường Mỹ và kiếm lời khá nhiều nhờ doanh trường Mỹ. Một thí dụ nên nói đến là hơn một phần ba doanh lợi của các tổ hợp Âu châu là do đầu tư ra nước ngoài, và doanh lợi tại riêng thị trường Mỹ lên đến 20%. Lý do khiến tôi không lạc quan về ảnh hưởng của sự hồi phục tại Mỹ đối với thế giới là vì cả ngoại thương lẫn đầu tư đều tiến hành bằng đồng Mỹ kim. Việc đồng đô la Mỹ sụt giá tất nhiên triệt tiêu lợi thế xuất khẩu vào Mỹ hoặc chuyển doanh lời từ tiền Mỹ sang tiền mình, thí dụ như đồng Euro chẳng hạn. Khi tiền Mỹ mất giá đến 25% so với đồng Euro trong suốt năm qua thì nhà xuất cảng Âu châu bị thiệt, bị mất thị phần của mình, và nhà đầu tư Âu châu có lời nhiều nhờ kinh tế Mỹ nhưng chuyển về thì cũng bị hao hụt vì sai biệt tỷ giá. Tiền Mỹ sẽ còn có thể sụt từ nay đến hết năm tới thì mới đạt được đúng thực giá của nó, và khi kinh tế Mỹ phục hồi mà tiền Mỹ mất giá thì hiệu ứng phục hồi đó có bị giảm cho các nước khác.
Hỏi: Còn về trường kỳ, ông cũng không thấy lạc quan, vì sao vậy"
-- Vì một nghịch lý tôi đã có dịp trình bày trên diễn đàn này từ hai năm trước và cũng vừa nhắc tới ở trên đây. Đó là sự lệ thuộc quá đáng của thế giới vào kinh tế Mỹ xuất phát từ một cái thế phân công lao động thiếu lành mạnh. Á châu tích cực sản xuất và tiết kiệm để bán hàng cho Mỹ, có tiền thì đầu tư vào thị trường Mỹ. Ngược lại, Hoa Kỳ lại có sức tiết kiệm thấp, ngày một giảm từ nhiều năm qua, và sức tiêu thụ cao, ảnh hưởng đến hơn hai phần ba vào sản lượng kinh tế nên mắc nợ nhiều, nợ bên trong lẫn bên ngoài. Hậu quả về dài là Mỹ bị thất quân bình về chi phó, tức là cán cân vãng lai bị thiếu hụt vì nạn nhập siêu kéo dài. Ngay trước mắt thì kinh tế Mỹ còn bị nạn bội chi ngân sách, dù không nhiều và chẳng nguy kịch như người ta báo động nhưng cũng phản ảnh một xu hướng chung là lấy tiêu thụ làm lực đẩy kinh tế. Tình trạng này không thể kéo dài mãi, và chỉ dấu tiên báo chính là việc đồng Mỹ kim bị sụt giá đều từ hơn một năm nay. Cho nên, nếu thế giới mong là nhờ Hoa Kỳ mà các nền kinh tế khác sẽ khởi sắc thì mình lại càng đào sâu thêm sự thất quân bình đó trong quan hệ kinh tế thế giới.
Hỏi: Câu hỏi cuối, thưa ông, các nước khác nên làm gì trước tình trạng đó"
-- Nói cho ngắn gọn là đẩy mạnh khả năng tiêu thụ nội địa để lệ thuộc ít hơn vào xuất khẩu, nhất là xuất khẩu vào thị trường Mỹ. Chiến lược phát triển kinh tế Đông Á, vốn đã tạo ra sự kỳ diệu kinh tế trong hơn 30 chục năm là hướng về xuất khẩu, giờ đây có lẽ đã hết hiệu quả. Người ta phải tìm ra chiến lược khác, thí dụ như nâng cao khả năng đầu tư và tiêu thụ nội địa và đa dạng hóa khả năng xuất khẩu, kể cả xuất khẩu tại chỗ là du lịch chẳng hạn. Thái Lan là quốc gia đầu tiên đã thấy và đang tiến hành việc đó. Tôi mong rằng trong hội nghị giữa năm của các nước cấp viện cho Việt Nam, sẽ họp vào tuần tới, cũng sẽ có người nêu vấn đề này ra cho giới lãnh đạo Việt Nam. Đừng nói đến việc gia nhập Tổ chức Mậu dịch Thế giới WTO để đẩy mạnh ngoại thương và cạnh tranh tự do trên toàn cầu khi mà dân chúng và thành phần kinh tế tư nhân trong nước chưa thể sinh hoạt bình đẳng và bình hòa dưới cái ách chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước, và thị trường nội địa vì vậy chưa là lực đẩy chủ yếu cho nền kinh tế quốc dân.
Đài RFA trao đổi về vấn đề trên với kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa như sau.
Hỏi: Thưa ông Nguyễn Xuân Nghĩa, một số chỉ dấu đã báo hiệu sự phục hồi của kinh tế Hoa Kỳ, và tuần qua, Bộ trưởng Ngân khố Mỹ, ông John Snow nêu dự đoán là đến cuối năm 2003 này, kinh tế Mỹ có thể đạt tốc độ tăng trưởng là 4%. Á châu vốn chịu ảnh hưởng rất mạnh của sự thăng trầm kinh tế tại Hoa Kỳ nên theo dõi việc này rất sát và dư luận tự hỏi là dấu hiệu phục hồi này có khả tín hay không, có đáng tin hay không"
-- Tôi thiển nghĩ là có, và mình phải trở lại từ đầu, từ giữa năm 1991, dưới chính quyền của ông Bush cha, kinh tế Mỹ đã tăng trưởng đều trong một giai đoạn khá lâu, lâu nhất kể từ Đệ nhị Thế chiến. Sau giai đoạn tăng trưởng như vậy, thể nào cũng có lúc đình trệ theo chu kỳ kinh doanh bình thường. Lúc đó, ít ai nghĩ đến chu kỳ kinh doanh vì tưởng là cuộc cách mạng tín học bùng phát từ giữa thập niên 90, sẽ đẩy kinh tế Mỹ vào một thời hoàng kim, thị trường chứng khoán, nhất là của loại công ty có kỹ thuật cao, gọi tắt là “cao kỹ”, hay IT theo Anh ngữ, sẽ kéo kinh tế ra khỏi sức hút của trái đất. Sự lạc quan đó chấm dứt kể từ tháng Ba năm 2000, khi các cổ phiếu bắt đầu sụt giá. Sáu tháng sau đó, kinh tế Mỹ bắt đầu bị trì trệ và có lúc suy trầm. Trì trệ là khi tốc độ tăng trưởng không gia tăng nữa; suy trầm là khi đà tăng trưởng đó giảm sút trong hai quý liền, tức là trong sáu tháng liền, nặng hơn thì là suy thóai. Chín tháng sau vụ đình trệ đó, Hoa Kỳ còn bị nạn khủng bố và những bất ổn kế tiếp, khiến sinh hoạt kinh tế vẫn thiếu khởi sắc, cho đến tháng Ba vừa qua thì mới có dấu hiệu tích cực.
Hỏi: Như vụ sụt giá cổ phiếu năm 2000 ông vừa nói là dấu hiệu trì trệ, dấu hiệu tích cực đó cũng là giá cả trên thị trường chứng khóan đã gia tăng phải không"
-- Vâng, đây là một chỉ dấu đáng theo dõi, vì từ giữa tháng Ba đến nay, các chỉ số cổ phiếu Mỹ, nhất là chỉ số S&P500 có tính chất tiêu biểu cho nhiều cơ sở lớn nhỏ, hơn hẳn chỉ số Dow Jones hay Nasdaq, đã ra khỏi biên độ 770 tới 970 điểm bị khóa trong gần một năm qua, và hôm qua Thứ Hai đã vượt 1.000 điểm, một con số có ảnh hưởng tâm lý đáng kể và chưa từng thấy từ một năm nay. Kinh nghiệm cho thấy là sáu tháng sau một đợt tăng giá cổ phiếu liên tục như vậy thì kinh tế sẽ bắt trớn phục hồi, dù thông tin hàng ngày vẫn đưa ra thống kê tiêu cực của quý trước, khi dân chúng và doanh nghiệp còn phân vân chưa rõ về tình hình Iraq, có chiến tranh hay không, kéo dài lâu hay chóng, hậu quả với giá dầu thô ra sao, quân khủng bố có thể làm gì, v.v... Ngoài ra, mình còn nhiều chỉ dấu khác, thí dụ như phân lời của công khố phiếu và trái phiếu doanh nghiệp, phân lời chứ không phải lãi suất vốn biến chuyển ngược với phân lời, cho thấy các doanh nghiệp có thể đi vay rẻ hơn, điều đó cũng báo hiệu sự phục hồi.
Hỏi: Trước khi nói đến ảnh hưởng của sự phục hồi, xin ông cho biết về những yếu tố đã kéo nền kinh tế Mỹ ra khỏi giai đoạn trì trệ đó.
-- Trước tiên thì sau khi cắt giảm tồn kho và sản xuất dư thừa trong giai đoạn tăng truởng thì có lúc các doanh nghiệp sẽ lại bắt trớn sản xuất và tuyển dụng nhân viên. Đó là yếu tố chính, và đó là sức mạnh thăng hay giáng của thị trường. Ngoài ra, chính quyền cũng có khả năng can thiệp để kích thích sản xuất và tiêu thụ. Về tiền tệ thì hạ lãi suất, là điều Hội đồng Dự trữ Liên bang, nghĩa là Ngân hàng trung ương Mỹ, đã làm và có thể còn làm vào kỳ họp tới, khiến cái giá vay tiền thành rẻ hơn, việc mua bán và sản xuất dễ dàng hơn. Về thuế khóa thì có biện pháp giảm thuế, là điều chính quyền Bush đã làm cách đây đúng hai năm và làm lần thứ nhì cách đây đúng hai tuần. Tiền tệ nhờ đó được bơm vào nền kinh tế nhiều hơn, và kết quả sẽ được thấy trong tương lai không xa. Tuy nhiên, xin nói ngay là đà tăng trưởng này sẽ không cao, ở khoảng 3% một năm là lạc quan. Dù sao, 3% cho một nền kinh tế sản xuất ra hàng năm chừng 10.000 tỷ đô la, cho mức sống dân cư là 35.000 đô la một đầu người thì cũng là đáng kể.
Hỏi: Bây giờ ta mới nói đến ảnh hưởng toàn cầu của đà tăng trưởng này, thưa ông.
-- Vâng, có một điều bất thường và tôi thiển nghĩ là thiếu lành mạnh, khi thế giới bị lệ thuộc quá nhiều vào kinh tế Mỹ. Nước Mỹ sản xuất ra chừng một phần tư sản vật của địa cầu, nhưng đóng góp tới hơn 60% vào đà tăng trưởng của kinh tế thế giới vì là một thị trường lớn lại thiên về tiêu thụ, nên trở thành đầu máy kinh tế cho các nước xuất khẩu. Trong hiện tại, hai đầu máy đáng kể khác là Nhật Bản và Âu châu đều bị suy trầm hoặc trì trệ, cho nên kinh tế thế giới, nhất là kinh tế Đông Á mà chúng ta quan tâm hơn cả, càng lệ thuộc vào sự phục hồi của Hoa Kỳ. Việc kinh tế Mỹ có dấu hiệu khởi sắc vì vậy là tin vui cho châu Á, nhất là trong bối cảnh bất ổn về an ninh, gặp nguy cơ khủng bố và lại còn bị hiệu ứng của dịch bệnh Sars. Tuy nhiên, mình cũng không nên lạc quan lắm về sức kéo của nền kinh tế Mỹ, trong trường kỳ cũng như trong ngắn hạn.
Hỏi: Xin ông nói về những yếu tố ngắn hạn trước, khiến ông không mấy lạc quan.
-- Tôi xin được nói về hai lực đẩy xuất phát từ Hoa Kỳ cho các nền kinh tế khác, đó là thứ nhất, khả năng mua hàng của kinh tế Mỹ, hoặc giá trị xuất khẩu của các nước bán hàng cho thị trường Mỹ, thứ hai là khả năng sinh lời của các doanh nghiệp nước ngòai đầu tư vào thị trường Mỹ. Về ngoại thương hay mậu dịch, các nước xuất khẩu cho Mỹ, nhất là Á châu, có thể kiếm lời nhiều khi Hoa Kỳ nhập khẩu nhiều. Tại châu Á, nguồn lợi lớn khi bán hàng cho Mỹ là bán thiết bị và phụ tùng sản xuất, cụ thể và dễ hiểu là bán máy điện toán cho thị trường Mỹ chẳng hạn. Nguồn lợi đó đáng kể hơn là bán hàng tiêu dùng, và nguồn lợi đó bị sụt tới hơn 20% khi kinh tế Mỹ suy trầm, các công ty Mỹ tiết giảm đầu tư trang thiết bị. Đó là về ngoại thương, về đầu tư, và trường hợp này liên hệ đến Âu châu nhiều hơn Á châu, các nước có đô la đều dồn tiền mua tài sản kinh doanh trong thị trường Mỹ, ngoài cổ phiếu và trái phiếu thì còn có đầu tư trực tiếp, thí dụ như lập cơ sở sản xuất. Tổng số tiền đầu tư trực tiếp các nước trút vào Hoa Kỳ trong năm 2001 là hơn 7.000 tỷ, tăng hơn 12% so với mười năm trước. Các doanh nghiệp thế giới đầu tư vào thị trường Mỹ và kiếm lời khá nhiều nhờ doanh trường Mỹ. Một thí dụ nên nói đến là hơn một phần ba doanh lợi của các tổ hợp Âu châu là do đầu tư ra nước ngoài, và doanh lợi tại riêng thị trường Mỹ lên đến 20%. Lý do khiến tôi không lạc quan về ảnh hưởng của sự hồi phục tại Mỹ đối với thế giới là vì cả ngoại thương lẫn đầu tư đều tiến hành bằng đồng Mỹ kim. Việc đồng đô la Mỹ sụt giá tất nhiên triệt tiêu lợi thế xuất khẩu vào Mỹ hoặc chuyển doanh lời từ tiền Mỹ sang tiền mình, thí dụ như đồng Euro chẳng hạn. Khi tiền Mỹ mất giá đến 25% so với đồng Euro trong suốt năm qua thì nhà xuất cảng Âu châu bị thiệt, bị mất thị phần của mình, và nhà đầu tư Âu châu có lời nhiều nhờ kinh tế Mỹ nhưng chuyển về thì cũng bị hao hụt vì sai biệt tỷ giá. Tiền Mỹ sẽ còn có thể sụt từ nay đến hết năm tới thì mới đạt được đúng thực giá của nó, và khi kinh tế Mỹ phục hồi mà tiền Mỹ mất giá thì hiệu ứng phục hồi đó có bị giảm cho các nước khác.
Hỏi: Còn về trường kỳ, ông cũng không thấy lạc quan, vì sao vậy"
-- Vì một nghịch lý tôi đã có dịp trình bày trên diễn đàn này từ hai năm trước và cũng vừa nhắc tới ở trên đây. Đó là sự lệ thuộc quá đáng của thế giới vào kinh tế Mỹ xuất phát từ một cái thế phân công lao động thiếu lành mạnh. Á châu tích cực sản xuất và tiết kiệm để bán hàng cho Mỹ, có tiền thì đầu tư vào thị trường Mỹ. Ngược lại, Hoa Kỳ lại có sức tiết kiệm thấp, ngày một giảm từ nhiều năm qua, và sức tiêu thụ cao, ảnh hưởng đến hơn hai phần ba vào sản lượng kinh tế nên mắc nợ nhiều, nợ bên trong lẫn bên ngoài. Hậu quả về dài là Mỹ bị thất quân bình về chi phó, tức là cán cân vãng lai bị thiếu hụt vì nạn nhập siêu kéo dài. Ngay trước mắt thì kinh tế Mỹ còn bị nạn bội chi ngân sách, dù không nhiều và chẳng nguy kịch như người ta báo động nhưng cũng phản ảnh một xu hướng chung là lấy tiêu thụ làm lực đẩy kinh tế. Tình trạng này không thể kéo dài mãi, và chỉ dấu tiên báo chính là việc đồng Mỹ kim bị sụt giá đều từ hơn một năm nay. Cho nên, nếu thế giới mong là nhờ Hoa Kỳ mà các nền kinh tế khác sẽ khởi sắc thì mình lại càng đào sâu thêm sự thất quân bình đó trong quan hệ kinh tế thế giới.
Hỏi: Câu hỏi cuối, thưa ông, các nước khác nên làm gì trước tình trạng đó"
-- Nói cho ngắn gọn là đẩy mạnh khả năng tiêu thụ nội địa để lệ thuộc ít hơn vào xuất khẩu, nhất là xuất khẩu vào thị trường Mỹ. Chiến lược phát triển kinh tế Đông Á, vốn đã tạo ra sự kỳ diệu kinh tế trong hơn 30 chục năm là hướng về xuất khẩu, giờ đây có lẽ đã hết hiệu quả. Người ta phải tìm ra chiến lược khác, thí dụ như nâng cao khả năng đầu tư và tiêu thụ nội địa và đa dạng hóa khả năng xuất khẩu, kể cả xuất khẩu tại chỗ là du lịch chẳng hạn. Thái Lan là quốc gia đầu tiên đã thấy và đang tiến hành việc đó. Tôi mong rằng trong hội nghị giữa năm của các nước cấp viện cho Việt Nam, sẽ họp vào tuần tới, cũng sẽ có người nêu vấn đề này ra cho giới lãnh đạo Việt Nam. Đừng nói đến việc gia nhập Tổ chức Mậu dịch Thế giới WTO để đẩy mạnh ngoại thương và cạnh tranh tự do trên toàn cầu khi mà dân chúng và thành phần kinh tế tư nhân trong nước chưa thể sinh hoạt bình đẳng và bình hòa dưới cái ách chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước, và thị trường nội địa vì vậy chưa là lực đẩy chủ yếu cho nền kinh tế quốc dân.
Gửi ý kiến của bạn