Việt Kiều đang mang chuyên môn mọi ngành về VN, từ kỹ thuật kinh doanh cho tới quản trị và chuyên môn tin học. Họ thuê nhiều ngàn người cho nhiều lĩnh vực khác nhau. Và họ đưa thêm sự phức tạp, kiểu dáng và ý thức toàn cầu vào 1 xã hội phần lớn đã bị cắt lìa khỏi các hướng đi quốc tế trong hơn 2 thập niên.
Tính chung, khối 2.7 triệu người Việt hải ngoại đã gửi về 3 tỉ đô một cách chính thức và không chính thức - đủ để làm nước nghèo này cân bằng ngân sách và duy trì trữ lượng ngoại tệ. Chính phủ CSVN say mê toàn bộ thứ tiền mặt này và kiến thức [Việt kiều], nhưng cùng lúc họ không thể gạt qua sự nghi ngờ những thế lực ngoại quốc sau lưng Việt Kiều.
Nguyễn Việt Thuần, phó chủ tịch Ủy Ban Việt Kiều tại Sài Gòn, nói, “Có một số Việt Kiều âm mưu lật đổ nhà nước.”
Khoảng 150,000 Việt Kiều đã trở về VN sống kể từ khi nước này mở cửa cho họ năm 1987. Điều này dẫn theo sự chấm dứt thứ chủ nghĩa xã hội lý thuyết, và đưa tới các đổi mới kinh tế. Đóng góp kinh tế của Việt Kiều đã tăng vọt, cũng như có ảnh hưởng vào lực lượng lao động, tại cả hai đầu cao và thấp (lao động trí thức và chân tay).
Bà Lê Thị Mỹ Dung đã bán tiệm ăn VN thành công của bà tại Orlando, Floridam và về VN năm 1992 lúc 41 tuổi. Bà nói, “Một trong những khát vọng của tôi là tạo ra việc làm cho người nghèo ở VN - và bây giờ tôi làm như thế.” Bà Dung có 1 kinh doanh nhỏ, thuê 20 người cho 4 tiệm cà phê và 1 xưởng làm kem ở Sài Gòn. Bà nói, “Nhân viên cuả tôi đều từ dân nghèo xuất thân, họ tới đây bằng xe đạp. Bây giờ họ có xe gắn máy mới.”
Tại sao Việt Kiều trở về 1 nước VN lạc hậu trong khi nhiều người thành công tại quê hương mới của họ" Thường thì khởi đầu là chuyến về thăm thân nhân và quê cũ, hay để tìm hiểu xem quê nhà ra sao.
Không ngạc nhiên gì nhà nước CSVN muốn chiêu dụ Việt Kiều về. Từ khi đổi mới kinh tế, thu nhập quốc dân GDP mỗi đầu người đã tăng từ 180 đô lên 370 đô la. Kinh tế khá hơn, với lạm phát 700% từ cuối thập niên 1980s để còn âm 0.2% (tức giảm phát). VN bây giờ là nước xuất cảng gạo hàng đầu, nơi đến du lịch nổi tiếng, và đang khai thác các mỏ dầu khí. Nhưng kế hoạch lao động, tham nhũng và quan liêu đã kéo trì bất kỳ nỗ lực cất cánh nào. Thuần nói, “Việt Nam cần ngoại tệ, nhưng quan trọng hơn chính là kiến thức từ Việt Kiều.”
Khả năng của Việt Kiều khắp thế giới thường vượt cả dân bản xứ nứơc đó. Thí dụ, tại Pháp, 40,000 người trong khối 280,000 Việt Kiều là các chuyên gia hạng nặng - bác sĩ, luật sư, kỹ sư và lãnh tụ doanh nghiệp. Với tỉ lệ 15% chuyên gia, con số này vượt xa tỉ lệ cuả người Pháp bản xứ.
Hầu hết Việt Kiều về đều tránh chính trị, ít nhất là công khai. Nhưng họ bị nghi ngờ mỗi khi có biểu tình bùng nổ - như khi dân Thượng biểu tình đòi đất ở Pleiku tháng trước. Bốn năm trước, biểu tình tương tự cũng xảy ra ở Thai Bình. Các cán bộ thường quy chụp cho “thế lực thù nghịch,” chữ giành cho người Việt hải ngoại như các tổ chức chống Cộng ở California và Liên Minh VN Tự Do ở Pháp, những tổ chức đòi dân chủ đa nguyên.