Tôi nghĩ chuyến hành hương của Giáo Hoàng không phải chỉ để thực hiện một ước mơ về tâm linh đã có từ lâu, mà còn nhằm đi một bước tích cực nhất và cụ thể nhất trong một sứ mạng vô cùng to lớn và cũng phải nói thêm, một sứ mạng thiên nan vạn nan. Đó là sứ mạng hàn gắn lại những vết thương gây ra bởi những sự va chạm, đụng độ từ cả chục thế kỷ nay giữa ba tôn giáo lớn ở Trung Đông là Do thái giáo, Thiên chúa giáo và Hồi giáo. Sự cải thiện và tăng cường các mối quan hệ tôn giáo đó còn lớn hơn cả vấn đề tâm linh, bởi vì đó là nền móng vững chắc cho hòa bình, không chỉ ở Trung Đông mà còn cho toàn thể thế giới. Hòa hợp hòa giải giữa Do thái giáo, Thiên chúa giáo và Hồi giáo là việc làm đúng, bởi vì ba tôn giáo đó cùng chung một gốc. Đó là cuốn kinh Cựu ước kể lại lịch sử của dân tộc Do Thái, trong đó đoạn quan trọng nhất là đoạn Môi-se dẫn dắt dân Do Thái từ cuộc sống lưu đầy ở Ai Cập trở về miền Đất hứa, đã dừng lại trên đỉnh núi Sinai để bái phục vị Chúa cả duy nhất trên Trời và nhận 10 điều răn của Thiên chúa. Niềm tin chỉ có một Thượng đế bắt đầu với nhân loại từ đó.
Đức tin của Thiên chúa giáo xác nhận niềm tin đó, vì Chúa Giê su là con của Thiên chúa. Và Hồi giáo cũng xác nhận Thượng đế mà họ gọi là Allah và Giáo chủ khai sáng đạo Mohammad là một đấng tiên tri của Thượng đế. Cựu ước là kinh điển của Do thái giáo, một trong những cuốn sách cổ nhất của nhân loại. Kinh điển của Thiên chúa giáo gồm hai cuốn kinh, ngoài cuốn Cựu ước còn có cuốn Tân ước là then chốt bởi vì khởi đầu từ khi Chúa Giê-su giáng sinh 2000 năm trước đây, tức là đầu Công nguyên. Kinh điển của Hồi giáo là cuốn Coran vào thế kỷ 6 cũng gián tiếp nhìn nhận Abraham như người cha của sự thờ phượng Thượng đế duy nhất và đặc biệt cuốn kinh này có nhắc đến Đức mẹ Maria đã thụ thai vô nhiễm để sinh con mặc dù không nói đến Giê-su.
Nếu ba tôn giáo bắt nguồn từ một gốc, tại sao lại sự xung đột trong quá khứ" Trong một bài bình luận ngắn tôi không thể nhắc lại những cuốn sách, những bài viết của các học giả đã bỏ ra cả cuộc đời để tìm tòi nghiên cứu và các nhà thần học đã khảo sát giáo lý và kinh sách cổ điển ở Trung Đông, tôi chỉ xin nói một điều như thế này. Ba tôn giáo ở Trung Đông có thể xuất phát từ một gốc, và nói cho thật đúng, mọi tôn giáo trên Trái Đất này cũng chỉ có một mục tiêu duy nhất có thể tóm gọn một cách thật giản dị. Đó là sự rao giảng chữ “thiện” và khuyên con người lánh xa chữ “ác”. Nếu chẳng may có sự xung đột giữa các đức tin, đó không phải vì lời giảng dạy của các đấng khai sáng, các vị tiên tri mà vì sự rao giảng sai lầm của các hành giả, những cá nhân hay tập thể có sứ mạng lãnh mối đạo để truyền bá đức tin. Tôi nghĩ trong lịch sử hai ngàn năm qua, nếu có sự sai lầm như vậy ở bất cứ tôn giáo nào cũng là điều thường tình không thể tránh.
Vấn đề chỉ là có biết nhìn nhận sự sai lầm đó hay không. Từ ngày Đức Giáo hoàng John Paul II lên ngôi đến nay, nếu tôi nhớ không lầm, có đến gần 100 lần Ngài đã nhìn nhận những sai lầm trong quá khứ của Giáo hội Công giáo La Mã và Ngài đã xin sự tha thứ của tất cả - những người Do thái giáo, Hồi giáo cũng như những chi nhánh khác của Thiên chúa giáo như Tin Lành và Chính thống giáo, về những tội lỗi mà người ta đã nhân danh Công giáo phạm phải. Và một tuần lễ trước khi lên đường qua Trung Đông, trong một buổi lễ đặc biệt tại nhà thờ Thánh Phê-Rô tại Rome, Ngài đã cử hành một nghi thức long trọng chưa từng có trong lịch sử Giáo hội là công nhận những lỗi lầm quá khứ của Giáo hội để xin Thiên chúa tha thứ.
Tôi không phải là người tu hành theo đúng nghĩa của từ ngữ đó, tôi chỉ là một người thế tục, có một kiến thức cũng thường thường bậc trung. Nhưng tôi nghĩ Đức Giáo hoàng đã dậy chúng ta một bài học vô cùng quan trọng. Bài học đó là nếu anh muốn có hòa bình và ổn định, nếu anh muốn có hòa hợp hòa giải hay một cái gì đó tương tự, thì chính anh phải biết sám hối, biết nhìn nhận những lỗi lầm, những sai trái của anh trước hết, trước khi tố cáo những tội lỗi của người khác. Hàn gắn vết thương, xây dựng hòa bình là một cuộc tranh đấu gay go. Bởi vậy bài học của Đức Giáo hoàng cũng là một bài học của mọi sự tranh đấu nói chung. Tôi nghĩ tôi sẽ trở lại bài học tranh đấu này trong những bài tới.
Cuộc tranh đấu nào cũng cam go, cũng nhiều thử thách đôi khi lẫn cả máu và nước mắt. Nhưng đó là cái giá phải trả cho hòa bình và phát triển, cho bước tiến của nhân loại. Tôi đã nói sứ mạng của Đức Giáo Hoàng John Paul II rất khó khăn, dù Ngài muốn đứng trên mọi tranh chấp thế tục ở Trung Đông để hoàn thành ước nguyện của Ngài. Nhìn hình ảnh của Ngài, một ông già 79 tuổi, chống gậy chân bước run rẩy, tấm thân già lão đã từng nhiều lúc mang bệnh trầm kha, tôi thấy lòng nao nao cảm phục ý chí tuyệt vời của một con người như vậy.
Hồi cuối năm ngoái, tôi đã chọn Đức Giáo Hoàng John Paul II là “Người của Thế Kỷ”. Tôi cảm phục Ngài và tôi vẫn giữ nguyên sự lựa chọn, giữ nguyên niềm tin của tôi nơi Ngài, mặc dù tôi không phải là người Công giáo.