- Chính nhà nứơc CSVN cũng nói là thấy cần có nhu cầu phải quên đi, hay ít nhất cũng là tạm gác lại nếu không thực sự hòa giải được sau một thời nội chiến, để cùng nhìn về một hướng tương lai. Bởi vì không góp chung sức để đưa đất nứơc sớm phát triển, thì rồi không cạnh tranh nổi các nước láng giềng. Đó là chưa nói gì tới một cơ nguy quân sự khu vực. Bài học từ Hội Nghị Diên Hồng năm xưa lúc nào cũng nhắc nhở tới nhu cầu đoàn kết.
Đó đúng là những gì mà nhà nứơc CSVN cũng liên tục nói lên. Đặc biệt là những tháng ngày đầu năm 2005, cũng là sắp tới các dấu mốc tròn 30 năm kết thúc cuộc chiến - khi Bắc Quân tòan thắng Nam Quân, và cũng là sắp tròn 10 năm bang giao Việt-Mỹ.
Quên đi các quá khứ cay đắng, để cùng nhìn về tương lai. Không chỉ là để tuyên truyền với người Việt hải ngọai, mà nhà nứơc CSVN cũng nói ầm ĩ trong các đại hội đảng của họ. Chính tại Đại hội Đảng CSVN lần thứ IX trong tháng 1-2005, Nguyễn Đình Bin, Thứ trưởng Ngoại giao CSVN, Chủ nhiệm ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài, đã đọc diễn văn, có các câu như:
"Hiện nay có trên 2,5 triệu người Việt Nam đang làm ăn, sinh sống ở khắp năm Châu, trong đó phần lớn tập trung ở các nước phương Tây, còn lại ở các nước Đông Âu và các nước láng giềng… Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là một cộng đồng trẻ nhưng năng động và phát triển, là nguồn nội lực quý báu của đất nước, trong đó bao gồm nguồn vốn và con người, đặc biệt là tài nguyên trí thức… Trong cộng đồng đang diễn ra sự chuyển hóa tích cực, ngày càng có nhiều người về thăm đất nước, hồi hương, hoặc về tìm cơ hội kinh doanh, đầu tư, hợp tác khoa học kỹ thuật. Kể từ năm 1987 mới có 8.000 lượt người về thăm quê hương, đến năm 2.000 đã có 360.000 lượt người. Số lượng kiều hối gửi về nước cũng gia tăng đáng kể trong vài năm trở lại đây… Hằng năm có chừng 200 nhà khoa học, trí thức về nước làm công tác giảng dạy, tư vấn… Các chủ trương, chính sách phải đủ sức hấp dẫn, khuyến khích đồng bào trở về hợp tác làm ăn với trong nước; góp phần thực hiện tốt chính sách đại đoàn kết dân tộc, bỏ qua quá khứ, cùng nhau hợp tác kiến tạo một tương lai rực rỡ…"
Chúng ta hãy chú ý tới câu cuối của đọan văn trên. Đó là chính lời ông Thứ Trưởng Nguyễn Đình Bin kêu gọi đại đoàn kết dân tộc, bỏ qua quá khứ…
Mọi chuyện có vẻ như rằng thật tâm là múôn quên đi phần quá khứ cay đắng. Báo Tuổi Trẻ số 29-4-2005 còn nêu lên kinh nghiệm Bắc Kinh đối xử với Hoa Kiều để cho nhà nứơc CSVN theo gương đó mà đối xử:
"…Để có được những chuyên gia Hoa kiều giỏi về nước làm việc, mấy năm qua, Trung Quốc đã chi ra 120 triệu USD để làm công tác mời gọi. Khi về nước làm việc, các chuyên gia Hoa kiều còn được hưởng hàng loạt chính sách ưu đãi khác như: được cung cấp phương tiện nghiên cứu cần thiết; giữ nguyên mức lương đang hưởng ở nước ngoài, thậm chí có thể cao hơn. Chuyên gia Hoa kiều được hưởng những đặc lợi về nhà cửa, các khoản bảo hiểm, trợ cấp công việc, bảo đảm cho con cái họ có cuộc sống tiện nghi và môi trường học tập lý tưởng, tạo điều kiện thuận lợi ra nước ngoài thăm bà con, họ hàng. Cho phép chuyên gia được chuyển lợi nhuận ra nước ngoài..."
Nhưng chỉ vài ngày trứơc khi Thủ Tướng CSVN Phan Văn Khải sang thăm Hoa Kỳ hồi giữa năm 2005, chính phủ Hà Nội yêu cầu Indonesia đục bể bia đá trên trại tị nạn Galang. Bia Tri An này chỉ có mấy dòng chữ bày tỏ lòng biết ơn tới Cao Uy Tị Nạn LHQ, Hội Hồng Thập Tự, các chính phủ và ngừơi dân sở tại. Không có dòng chữ nào xúc phạm tới Hà Nội cả. Tới tháng 10-2005, chính phủ CSVN lại yêu cầu Mã Lai đập bể một bia đá tương tự tại nơi trứơc kia là trại tị nạn Bidong.
Tới bia đá nằm xa ngàn dặm mà còn không thoát nổi lòng căm thù của đảng CSVN, thì nói gì tới những con ngừơi cụ thể đã từng sống nhiều năm ở các nền dân chủ đa nguyên.
Nhưng, thử đưa câu hỏi khác, nhà nứơc đối với Việt kiều thì mối thù vươn xa ngàn dặm, vậy thì đối với dân trong quốc nội thì sao"
Đây cũng là điều để chúng ta cùng suy nghĩ. Câu hỏi vừa nêu đã chợt khởi lên trong lòng người viết, khi xem DVD "75 Năm Am Nhạc Việt Nam" của Trung Tâm Asia Entertainment. Tất nhiên là nhạc hay, ca sĩ xuất sắc, các điệu múa tuyệt vời và âm thanh thì không chê vào đâu được. Dù là chưa hiện diện đầy đủ các biểu tượng âm nhạc, nhưng để nói một khoàng thời gian trải dài như thế cũng đã là cực kỳ công phu. Vấn đề múôn nêu lên nơi đây rằng, nhà nứơc Hà nội đã đối xử với một số nhạc sĩ tài ba xuất sắc hết sức là tệ bạc. Nhận xét đó không phải từ những người còn ôm đầy quá khứ. Không phải đâu. Đó chính là nhận xét của luật sư Trịnh Hội, một người thuộc thế hệ trẻ và trưởng thành ở hải ngọai, một ngừơi không dây mơ rễ má gì với quá khứ một thời Bến Hải.
Trịnh Hội đã mang máy quay phim về Việt Nam trong tháng 8-2005, tìm gặp một số nhạc sĩ có dấu ấn lớn trên dòng nhạc Việt. Và những gì luật sư trẻ này khám phá thì đầy kinh ngạc.
Trịnh Hội đã tới thăm vợ của cố nhạc sĩ Văn Cao, ngừơi được xem như là nhạc sĩ khổng lồ nhất của âm nhạc Việt trong thế kỷ 20, đã nghe kể tâm sự và mới biết rằng nhạc sĩ Văn Cao súôt một đời sống nghèo thê thảm. Đặc biệt sau năm 1954 súôt cho tới gần nửa thế kỷ sau, nhạc Văn Cao bị cấm phổ biến vì liên hệ với nhóm Nhân Văn Giai Phẩm, tất nhiên chỉ trừ bản được CSVN dùng làm qúôc ca. Và tới vài năm gần đây, nhạc Văn Cao mới được phổ biến trở lại.
Một trường hợp cũng tương tự, nhưng chỉ vì lý cớ nhạc vàng. Các bản nhạc của Đòan Chuẩn (với lời thường là của Từ Linh) cũng bị cấm súôt 50 năm. Tình cảm tiểu tư sản, tạch tạch sè… ủy mị, lãng mạn…
Cả Văn Cao và Đòan Chuẩn bây giờ thì đã khuất núi rồi. Sự công nhận đã tới qúa trễ.
Đó là các nhạc sĩ lớn ở bên kia lằn ranh Bến Hải đấy. Còn như trường hợp nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông thì bây giờ, 30 năm rồi, nhạc vẫn còn bị cấm. Nguyễn Văn Đông thì ở phía nam, nên hẳn nhiên bị Hà Nội xem là địch, dù là hầu hết nhạc của ông là tình ca. Nhưng hãy suy nghĩ, nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông vẫn không chịu bỏ nước ra đi, vẫn một lòng ở lại với quê nhà, thì sao nhà nứơc vẫn đưa vào sổ đen cấm đoán"
Trong DVD "75 Năm Am Nhạc Việt Nam" này, người trẻ Trịnh Hội đã bùi ngùi tổng kết lại chuyến đi về VN quay hình, anh nói đã rút ra 3 bài học:
- Đất nước mình nghèo quá, dân nghèo bi thảm, trong khi cán bộ quá giaù, và trong khối đại đa số dân nghèo đó lại có mặt các nhạc sĩ lớn Việt Nam, cụ thể là Văn Cao, đã sống nghèo quá, chưa được đối xử xứng đáng tí nào.
- Thứ nhì, đàn bà VN hy sinh nhiều quá, nhất là vợ của các nghệ sĩ.
- Thứ ba, không ngờ là chính phủ CSVN bây giờ vẫn còn kềm kẹp, xiết người nghệ sĩ gắt quá, ra đủ thứ quy định về đầu tóc, quần áo, bản nhạc phải kiểm duyệt và trong danh sách được phép hát.
Cần nhắc rằng người trẻ này không hề có một quá khứ gì để căm thù chế độ. Hãy nghe Trịnh Hội nói thêm lời tổng kết chuyến đi, "Chúng ta cần có cái nhìn độ lượng và đầy đủ về quá khứ, nhưng chúng ta cần tôn trọng sự thật, cần can đảm nói lên sự thật, nói thay cho những ngừơi bị cấm nói sự thật ở Việt Nam…"
Ai dám nói rằng những ngừơi trẻ như Trịnh Hội, Leyna Nguyễn nặng nề quá khứ" Không phải rằng, chính họ đang lên án Hà nội đã quá nặng nề quá khứ hay sao"
Hãy nhìn về số phận các bản tình ca bị cấm hát cả nửa thế kỷ… Dòng sông ngăn cách đã lấp bằng từ 30 năm nay, nhưng rồi bia đá nơi đảo xa ngàn dặm cũng vẫn còn bị đảng CSVN căm thù, phải theo đập cho vỡ.
Và rồi, vẫn còn những dòng nhạc đang bị cấm. Hay vừa được gỡ lệnh cấm hát sau nửa thế kỷ. Nhưng điều chắc chắn rằng, những tình khúc kia, của Văn Cao, Đòan Chuẩn, Nguyễn Văn Đông… sẽ còn được hát nhiều thập niên nữa, và có thể sẽ là bất tử, trong khi chế độ CSVN thấy rõ là chẳng còn tuổi thọ bao lâu nữa.
Điều thấy trước mắt bây giờ là, thơ của ông Hồ Chí Minh, sách của Trần Dân Tiên và T. Lan đang bị dân chúng tìm cách quên đi. Bị đẩy vào bóng tối dần đi. Nếu bạn không nhớ nhà văn Trần Dân Tiên và nhà báo T. Lan là ai thì nơi đây xin nhắc: chính ông Hồ Chí Minh đã dùng bút hiệu Trần Dân Tiên để viết cuốn “Những mẫu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch,” và ông Hồ dùng bút hiệu T. Lan để viết cuốn “Vừa đi đường, vừa kể chuyện.” Cả 2 cuốn đều ca ngợi ông Hồ là vĩ đại, là làm thơ hay.
Ông Hồ tự khen mình như thế, nhưng chắc chắn rằng thơ ông không thể tồn tại lâu hơn nhạc của Văn Cao, Đoàn Chuẩn... Thấy rõ là thế, mà không cần sách nào khen chê cả.
Đó đúng là những gì mà nhà nứơc CSVN cũng liên tục nói lên. Đặc biệt là những tháng ngày đầu năm 2005, cũng là sắp tới các dấu mốc tròn 30 năm kết thúc cuộc chiến - khi Bắc Quân tòan thắng Nam Quân, và cũng là sắp tròn 10 năm bang giao Việt-Mỹ.
Quên đi các quá khứ cay đắng, để cùng nhìn về tương lai. Không chỉ là để tuyên truyền với người Việt hải ngọai, mà nhà nứơc CSVN cũng nói ầm ĩ trong các đại hội đảng của họ. Chính tại Đại hội Đảng CSVN lần thứ IX trong tháng 1-2005, Nguyễn Đình Bin, Thứ trưởng Ngoại giao CSVN, Chủ nhiệm ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài, đã đọc diễn văn, có các câu như:
"Hiện nay có trên 2,5 triệu người Việt Nam đang làm ăn, sinh sống ở khắp năm Châu, trong đó phần lớn tập trung ở các nước phương Tây, còn lại ở các nước Đông Âu và các nước láng giềng… Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là một cộng đồng trẻ nhưng năng động và phát triển, là nguồn nội lực quý báu của đất nước, trong đó bao gồm nguồn vốn và con người, đặc biệt là tài nguyên trí thức… Trong cộng đồng đang diễn ra sự chuyển hóa tích cực, ngày càng có nhiều người về thăm đất nước, hồi hương, hoặc về tìm cơ hội kinh doanh, đầu tư, hợp tác khoa học kỹ thuật. Kể từ năm 1987 mới có 8.000 lượt người về thăm quê hương, đến năm 2.000 đã có 360.000 lượt người. Số lượng kiều hối gửi về nước cũng gia tăng đáng kể trong vài năm trở lại đây… Hằng năm có chừng 200 nhà khoa học, trí thức về nước làm công tác giảng dạy, tư vấn… Các chủ trương, chính sách phải đủ sức hấp dẫn, khuyến khích đồng bào trở về hợp tác làm ăn với trong nước; góp phần thực hiện tốt chính sách đại đoàn kết dân tộc, bỏ qua quá khứ, cùng nhau hợp tác kiến tạo một tương lai rực rỡ…"
Chúng ta hãy chú ý tới câu cuối của đọan văn trên. Đó là chính lời ông Thứ Trưởng Nguyễn Đình Bin kêu gọi đại đoàn kết dân tộc, bỏ qua quá khứ…
Mọi chuyện có vẻ như rằng thật tâm là múôn quên đi phần quá khứ cay đắng. Báo Tuổi Trẻ số 29-4-2005 còn nêu lên kinh nghiệm Bắc Kinh đối xử với Hoa Kiều để cho nhà nứơc CSVN theo gương đó mà đối xử:
"…Để có được những chuyên gia Hoa kiều giỏi về nước làm việc, mấy năm qua, Trung Quốc đã chi ra 120 triệu USD để làm công tác mời gọi. Khi về nước làm việc, các chuyên gia Hoa kiều còn được hưởng hàng loạt chính sách ưu đãi khác như: được cung cấp phương tiện nghiên cứu cần thiết; giữ nguyên mức lương đang hưởng ở nước ngoài, thậm chí có thể cao hơn. Chuyên gia Hoa kiều được hưởng những đặc lợi về nhà cửa, các khoản bảo hiểm, trợ cấp công việc, bảo đảm cho con cái họ có cuộc sống tiện nghi và môi trường học tập lý tưởng, tạo điều kiện thuận lợi ra nước ngoài thăm bà con, họ hàng. Cho phép chuyên gia được chuyển lợi nhuận ra nước ngoài..."
Nhưng chỉ vài ngày trứơc khi Thủ Tướng CSVN Phan Văn Khải sang thăm Hoa Kỳ hồi giữa năm 2005, chính phủ Hà Nội yêu cầu Indonesia đục bể bia đá trên trại tị nạn Galang. Bia Tri An này chỉ có mấy dòng chữ bày tỏ lòng biết ơn tới Cao Uy Tị Nạn LHQ, Hội Hồng Thập Tự, các chính phủ và ngừơi dân sở tại. Không có dòng chữ nào xúc phạm tới Hà Nội cả. Tới tháng 10-2005, chính phủ CSVN lại yêu cầu Mã Lai đập bể một bia đá tương tự tại nơi trứơc kia là trại tị nạn Bidong.
Tới bia đá nằm xa ngàn dặm mà còn không thoát nổi lòng căm thù của đảng CSVN, thì nói gì tới những con ngừơi cụ thể đã từng sống nhiều năm ở các nền dân chủ đa nguyên.
Nhưng, thử đưa câu hỏi khác, nhà nứơc đối với Việt kiều thì mối thù vươn xa ngàn dặm, vậy thì đối với dân trong quốc nội thì sao"
Đây cũng là điều để chúng ta cùng suy nghĩ. Câu hỏi vừa nêu đã chợt khởi lên trong lòng người viết, khi xem DVD "75 Năm Am Nhạc Việt Nam" của Trung Tâm Asia Entertainment. Tất nhiên là nhạc hay, ca sĩ xuất sắc, các điệu múa tuyệt vời và âm thanh thì không chê vào đâu được. Dù là chưa hiện diện đầy đủ các biểu tượng âm nhạc, nhưng để nói một khoàng thời gian trải dài như thế cũng đã là cực kỳ công phu. Vấn đề múôn nêu lên nơi đây rằng, nhà nứơc Hà nội đã đối xử với một số nhạc sĩ tài ba xuất sắc hết sức là tệ bạc. Nhận xét đó không phải từ những người còn ôm đầy quá khứ. Không phải đâu. Đó chính là nhận xét của luật sư Trịnh Hội, một người thuộc thế hệ trẻ và trưởng thành ở hải ngọai, một ngừơi không dây mơ rễ má gì với quá khứ một thời Bến Hải.
Trịnh Hội đã mang máy quay phim về Việt Nam trong tháng 8-2005, tìm gặp một số nhạc sĩ có dấu ấn lớn trên dòng nhạc Việt. Và những gì luật sư trẻ này khám phá thì đầy kinh ngạc.
Trịnh Hội đã tới thăm vợ của cố nhạc sĩ Văn Cao, ngừơi được xem như là nhạc sĩ khổng lồ nhất của âm nhạc Việt trong thế kỷ 20, đã nghe kể tâm sự và mới biết rằng nhạc sĩ Văn Cao súôt một đời sống nghèo thê thảm. Đặc biệt sau năm 1954 súôt cho tới gần nửa thế kỷ sau, nhạc Văn Cao bị cấm phổ biến vì liên hệ với nhóm Nhân Văn Giai Phẩm, tất nhiên chỉ trừ bản được CSVN dùng làm qúôc ca. Và tới vài năm gần đây, nhạc Văn Cao mới được phổ biến trở lại.
Một trường hợp cũng tương tự, nhưng chỉ vì lý cớ nhạc vàng. Các bản nhạc của Đòan Chuẩn (với lời thường là của Từ Linh) cũng bị cấm súôt 50 năm. Tình cảm tiểu tư sản, tạch tạch sè… ủy mị, lãng mạn…
Cả Văn Cao và Đòan Chuẩn bây giờ thì đã khuất núi rồi. Sự công nhận đã tới qúa trễ.
Đó là các nhạc sĩ lớn ở bên kia lằn ranh Bến Hải đấy. Còn như trường hợp nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông thì bây giờ, 30 năm rồi, nhạc vẫn còn bị cấm. Nguyễn Văn Đông thì ở phía nam, nên hẳn nhiên bị Hà Nội xem là địch, dù là hầu hết nhạc của ông là tình ca. Nhưng hãy suy nghĩ, nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông vẫn không chịu bỏ nước ra đi, vẫn một lòng ở lại với quê nhà, thì sao nhà nứơc vẫn đưa vào sổ đen cấm đoán"
Trong DVD "75 Năm Am Nhạc Việt Nam" này, người trẻ Trịnh Hội đã bùi ngùi tổng kết lại chuyến đi về VN quay hình, anh nói đã rút ra 3 bài học:
- Đất nước mình nghèo quá, dân nghèo bi thảm, trong khi cán bộ quá giaù, và trong khối đại đa số dân nghèo đó lại có mặt các nhạc sĩ lớn Việt Nam, cụ thể là Văn Cao, đã sống nghèo quá, chưa được đối xử xứng đáng tí nào.
- Thứ nhì, đàn bà VN hy sinh nhiều quá, nhất là vợ của các nghệ sĩ.
- Thứ ba, không ngờ là chính phủ CSVN bây giờ vẫn còn kềm kẹp, xiết người nghệ sĩ gắt quá, ra đủ thứ quy định về đầu tóc, quần áo, bản nhạc phải kiểm duyệt và trong danh sách được phép hát.
Cần nhắc rằng người trẻ này không hề có một quá khứ gì để căm thù chế độ. Hãy nghe Trịnh Hội nói thêm lời tổng kết chuyến đi, "Chúng ta cần có cái nhìn độ lượng và đầy đủ về quá khứ, nhưng chúng ta cần tôn trọng sự thật, cần can đảm nói lên sự thật, nói thay cho những ngừơi bị cấm nói sự thật ở Việt Nam…"
Ai dám nói rằng những ngừơi trẻ như Trịnh Hội, Leyna Nguyễn nặng nề quá khứ" Không phải rằng, chính họ đang lên án Hà nội đã quá nặng nề quá khứ hay sao"
Hãy nhìn về số phận các bản tình ca bị cấm hát cả nửa thế kỷ… Dòng sông ngăn cách đã lấp bằng từ 30 năm nay, nhưng rồi bia đá nơi đảo xa ngàn dặm cũng vẫn còn bị đảng CSVN căm thù, phải theo đập cho vỡ.
Và rồi, vẫn còn những dòng nhạc đang bị cấm. Hay vừa được gỡ lệnh cấm hát sau nửa thế kỷ. Nhưng điều chắc chắn rằng, những tình khúc kia, của Văn Cao, Đòan Chuẩn, Nguyễn Văn Đông… sẽ còn được hát nhiều thập niên nữa, và có thể sẽ là bất tử, trong khi chế độ CSVN thấy rõ là chẳng còn tuổi thọ bao lâu nữa.
Điều thấy trước mắt bây giờ là, thơ của ông Hồ Chí Minh, sách của Trần Dân Tiên và T. Lan đang bị dân chúng tìm cách quên đi. Bị đẩy vào bóng tối dần đi. Nếu bạn không nhớ nhà văn Trần Dân Tiên và nhà báo T. Lan là ai thì nơi đây xin nhắc: chính ông Hồ Chí Minh đã dùng bút hiệu Trần Dân Tiên để viết cuốn “Những mẫu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch,” và ông Hồ dùng bút hiệu T. Lan để viết cuốn “Vừa đi đường, vừa kể chuyện.” Cả 2 cuốn đều ca ngợi ông Hồ là vĩ đại, là làm thơ hay.
Ông Hồ tự khen mình như thế, nhưng chắc chắn rằng thơ ông không thể tồn tại lâu hơn nhạc của Văn Cao, Đoàn Chuẩn... Thấy rõ là thế, mà không cần sách nào khen chê cả.
Gửi ý kiến của bạn