Cuộc chiến ở Iraq rồi sẽ đi về đâu" Đây là vấn đề mà người dân Hoa Kỳ đang rất quan tâm, vì hiện có 170 nghìn lính Mỹ có mặt ở đó và hằng ngày đều có thương vong bởi bom mìn, phục kích, bắn sẻ.
Nói về Iraq thì không thể quên bài học chiến tranh Việt Nam. Không khí chiến tranh ở Iraq và cuộc tranh cử tổng thống Mỹ năm nay là không khí của nước Mỹ vào năm 1968. Về tình hình Iraq hiện tại thì có những cái nhìn khác nhau từ những chính trị gia Hoa Kỳ.
Nhận xét của tổng thống George W. Bush mới đây về cuộc chiến Việt Nam trong quá khứ có thể soi rọi ít nhiều đến điều mà ông Bush dự định thực hiện ở Iraq. Trong cuộc phỏng vấn với Bill O'Reilly của đài truyền hình giây cáp Fox News vào tuần qua, tổng thống W. Bush đã đồng ý với một nhận định do ký giả này đưa ra, là: "Người dân Nam Việt Nam không chịu chiến đấu cho sự tự do của họ, đó là nguyên do tại sao hôm nay họ không có tự do." Rồi khi được hỏi về người dân Iraq hiện tại có chiến đấu cho sự tự do của họ hay không" Tổng thống W. Bush đã trả lời một cách quả quyết: "chắc chắn là có."
Nhưng dân biểu Ellen Tauscher, thuộc đảng Dân Chủ ở vùng Đông Vịnh San Francisco, mới cùng một đoàn quốc hội đi thăm Iraq về, đã đưa ra nhận định khác. Bà nói đã thấy những dấu hiệu người dân Iraq không muốn tham gia vào cuộc chiến do Hoa Kỳ khởi xướng trên đất nước họ.
Giữa thập niên 1960, Hoa Kỳ gửi những đơn vị tác chiến đầu tiên đến Nam Việt Nam, rồi trong vòng ba năm kế tiếp số quân Mỹ chiến đấu tại đây lên đến hơn nửa triệu người. Lúc đó Hoa Kỳ đưa ra một sứ mạng: ngăn chặn làn sóng cộng sản tràn xuống Nam Việt Nam và có thể toàn vùng Đông Nam A, theo thuyết đô-mi-nô. Người Mỹ trực tiếp tham chiến từ 1965 đến 1973 thì rút hết quân đội về. Hai năm sau, làn sóng đỏ tràn xuống cả Việt Nam, nhưng các nước Đông Nam Á khác đã không bị cộng sản thống trị.
Sự thất bại của Hoa Kỳ tại Việt Nam đã được đem ra mổ xẻ liên tục cho đến ngày nay, nhất là khi Hoa Kỳ đang gửi quân đi chiến đấu ở nước ngoài.
Sau vụ khủng bố al-Qaeda tấn công nước Mỹ, Hoa Kỳ đã đưa quân vào Afghanistan, loại bỏ chế độ Taliban, truy lùng những phần tử al-Qaeda, nhưng thủ lãnh Bin-Laden thì vẫn còn lẩn trốn. Tổng thống George W. Bush sau đó tiến tới một kế hoạch đánh phủ đầu ở Iraq, lật đổ chế độ Saddam Hussein vì tin - một cách sai lầm - rằng nhà lãnh đạo này có cũ khí tàn phá rộng lớn nhắm vào nước Mỹ. Sứ mạng của Hoa Kỳ là: tiêu diệt khủng bố và những kẻ dung dưỡng để ngăn chặn sự phát triển của khủng bố ở vùng Cận Đông và toàn cầu.
Qua mười tám tháng chiếm đóng Iraq, Hoa Kỳ đã bắt được Saddam Hussein, loại trừ được hai người con của Hussein và nhiều tay chân thân tín, nhưng lính Mỹ ngày nay đang phải đương đầu với những vụ tấn công bằng bom, với những vụ bắn sẻ, phục kích, như đồng đội thời trước của họ đã phải đương đầu ở Việt Nam. Những tin tức truyền đi qua màn hình cho thấy kẻ thù của lính Mỹ ở Iraq cũng giống như những cán binh Việt Cộng, họ không có quân phục mà chỉ mặc những bộ quần áo truyền thống. Những phiến quân - thời đầu của của chiến tranh Việt Nam, cán binh cộng sản cũng được gọi bằng từ này - ở Iraq ngày nay trông như bất cứ người dân Iraq nào trên đường phố, nhưng đó có thể là những tay súng, những kẻ chủ mưu gài mìn, đặt bom.
Dù thế, những nhà làm chính sách Hoa Kỳ vẫn tỏ vẻ lạc quan là đang kiểm soát được tình hình Iraq. Tổng thống Lyndon Johnson, tướng William Westmoreland trong thời chiến tranh Việt Nam đã từng có những phát biểu lạc quan tương tự. Cho đến khi cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân xảy đến.
Mấy tuần nữa, dù George W. Bush hay John F. Kerry thắng cử, tình hình Iraq cũng không có hy vọng khá hơn vì những người đã coi Hoa Kỳ là kẻ thù thì họ không cần biết ai là người lãnh đạo nước Mỹ, họ chỉ có một mục đích duy nhất là đuổi được người Mỹ ra khỏi đất nước họ.
Bài học về việc đưa quân đi chiến đấu ở một nước khác không chỉ đem đến những thất bại cho Hoa Kỳ ở Việt Nam mà còn là bài học cay đắng cho Việt Nam ở Kampuchia, cho Liên Xô ở Afghanistan trong những năm sau này.
Càng ngày tình hình Iraq càng trở nên giống Nam Việt Nam hơn. Iraq ngày nay đang trong tình cảnh của miền Nam Việt Nam trong năm 1967. Khác chăng là sẽ theo một tỉ lệ nhỏ. Một điều có thể khẳng định được là Hoa Kỳ, chính phủ cũng như nhân dân, sẽ không để cho sự can dự vào Iraq kéo dài nhiều năm và số thương vong lên cao quá. Hoa Kỳ nếu không ổn định được tình hình Iraq sớm thì cũng tìm cách rút lui, như Ronald Reagan đã làm ở Lebanon năm 1983, chứ không thể tiếp tục hy sinh đến nhiều nghìn binh lính.
Người Mỹ đang có kế hoạch rút lui bằng sự chuẩn bị cho cuộc bầu cử ở Iraq vào đầu năm tới. Tổng thống W. Bush đang chuẩn bị sân khấu để phủi tay, như Nixon đã làm ở Nam Việt Nam.
Chúng ta hãy chờ xem, sau khi lính Mỹ đã rút khỏi Iraq, để biết nhận định của tổng thống W. Bush về người dân Nam Việt Nam trong quá khứ và về người dân Iraq hiện tại có đúng hay không.
(6 tháng 10, 2004)
Nói về Iraq thì không thể quên bài học chiến tranh Việt Nam. Không khí chiến tranh ở Iraq và cuộc tranh cử tổng thống Mỹ năm nay là không khí của nước Mỹ vào năm 1968. Về tình hình Iraq hiện tại thì có những cái nhìn khác nhau từ những chính trị gia Hoa Kỳ.
Nhận xét của tổng thống George W. Bush mới đây về cuộc chiến Việt Nam trong quá khứ có thể soi rọi ít nhiều đến điều mà ông Bush dự định thực hiện ở Iraq. Trong cuộc phỏng vấn với Bill O'Reilly của đài truyền hình giây cáp Fox News vào tuần qua, tổng thống W. Bush đã đồng ý với một nhận định do ký giả này đưa ra, là: "Người dân Nam Việt Nam không chịu chiến đấu cho sự tự do của họ, đó là nguyên do tại sao hôm nay họ không có tự do." Rồi khi được hỏi về người dân Iraq hiện tại có chiến đấu cho sự tự do của họ hay không" Tổng thống W. Bush đã trả lời một cách quả quyết: "chắc chắn là có."
Nhưng dân biểu Ellen Tauscher, thuộc đảng Dân Chủ ở vùng Đông Vịnh San Francisco, mới cùng một đoàn quốc hội đi thăm Iraq về, đã đưa ra nhận định khác. Bà nói đã thấy những dấu hiệu người dân Iraq không muốn tham gia vào cuộc chiến do Hoa Kỳ khởi xướng trên đất nước họ.
Giữa thập niên 1960, Hoa Kỳ gửi những đơn vị tác chiến đầu tiên đến Nam Việt Nam, rồi trong vòng ba năm kế tiếp số quân Mỹ chiến đấu tại đây lên đến hơn nửa triệu người. Lúc đó Hoa Kỳ đưa ra một sứ mạng: ngăn chặn làn sóng cộng sản tràn xuống Nam Việt Nam và có thể toàn vùng Đông Nam A, theo thuyết đô-mi-nô. Người Mỹ trực tiếp tham chiến từ 1965 đến 1973 thì rút hết quân đội về. Hai năm sau, làn sóng đỏ tràn xuống cả Việt Nam, nhưng các nước Đông Nam Á khác đã không bị cộng sản thống trị.
Sự thất bại của Hoa Kỳ tại Việt Nam đã được đem ra mổ xẻ liên tục cho đến ngày nay, nhất là khi Hoa Kỳ đang gửi quân đi chiến đấu ở nước ngoài.
Sau vụ khủng bố al-Qaeda tấn công nước Mỹ, Hoa Kỳ đã đưa quân vào Afghanistan, loại bỏ chế độ Taliban, truy lùng những phần tử al-Qaeda, nhưng thủ lãnh Bin-Laden thì vẫn còn lẩn trốn. Tổng thống George W. Bush sau đó tiến tới một kế hoạch đánh phủ đầu ở Iraq, lật đổ chế độ Saddam Hussein vì tin - một cách sai lầm - rằng nhà lãnh đạo này có cũ khí tàn phá rộng lớn nhắm vào nước Mỹ. Sứ mạng của Hoa Kỳ là: tiêu diệt khủng bố và những kẻ dung dưỡng để ngăn chặn sự phát triển của khủng bố ở vùng Cận Đông và toàn cầu.
Qua mười tám tháng chiếm đóng Iraq, Hoa Kỳ đã bắt được Saddam Hussein, loại trừ được hai người con của Hussein và nhiều tay chân thân tín, nhưng lính Mỹ ngày nay đang phải đương đầu với những vụ tấn công bằng bom, với những vụ bắn sẻ, phục kích, như đồng đội thời trước của họ đã phải đương đầu ở Việt Nam. Những tin tức truyền đi qua màn hình cho thấy kẻ thù của lính Mỹ ở Iraq cũng giống như những cán binh Việt Cộng, họ không có quân phục mà chỉ mặc những bộ quần áo truyền thống. Những phiến quân - thời đầu của của chiến tranh Việt Nam, cán binh cộng sản cũng được gọi bằng từ này - ở Iraq ngày nay trông như bất cứ người dân Iraq nào trên đường phố, nhưng đó có thể là những tay súng, những kẻ chủ mưu gài mìn, đặt bom.
Dù thế, những nhà làm chính sách Hoa Kỳ vẫn tỏ vẻ lạc quan là đang kiểm soát được tình hình Iraq. Tổng thống Lyndon Johnson, tướng William Westmoreland trong thời chiến tranh Việt Nam đã từng có những phát biểu lạc quan tương tự. Cho đến khi cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân xảy đến.
Mấy tuần nữa, dù George W. Bush hay John F. Kerry thắng cử, tình hình Iraq cũng không có hy vọng khá hơn vì những người đã coi Hoa Kỳ là kẻ thù thì họ không cần biết ai là người lãnh đạo nước Mỹ, họ chỉ có một mục đích duy nhất là đuổi được người Mỹ ra khỏi đất nước họ.
Bài học về việc đưa quân đi chiến đấu ở một nước khác không chỉ đem đến những thất bại cho Hoa Kỳ ở Việt Nam mà còn là bài học cay đắng cho Việt Nam ở Kampuchia, cho Liên Xô ở Afghanistan trong những năm sau này.
Càng ngày tình hình Iraq càng trở nên giống Nam Việt Nam hơn. Iraq ngày nay đang trong tình cảnh của miền Nam Việt Nam trong năm 1967. Khác chăng là sẽ theo một tỉ lệ nhỏ. Một điều có thể khẳng định được là Hoa Kỳ, chính phủ cũng như nhân dân, sẽ không để cho sự can dự vào Iraq kéo dài nhiều năm và số thương vong lên cao quá. Hoa Kỳ nếu không ổn định được tình hình Iraq sớm thì cũng tìm cách rút lui, như Ronald Reagan đã làm ở Lebanon năm 1983, chứ không thể tiếp tục hy sinh đến nhiều nghìn binh lính.
Người Mỹ đang có kế hoạch rút lui bằng sự chuẩn bị cho cuộc bầu cử ở Iraq vào đầu năm tới. Tổng thống W. Bush đang chuẩn bị sân khấu để phủi tay, như Nixon đã làm ở Nam Việt Nam.
Chúng ta hãy chờ xem, sau khi lính Mỹ đã rút khỏi Iraq, để biết nhận định của tổng thống W. Bush về người dân Nam Việt Nam trong quá khứ và về người dân Iraq hiện tại có đúng hay không.
(6 tháng 10, 2004)
Gửi ý kiến của bạn