Hôm nay,  

“Lời tình buồn” và 10 năm ngày mất của Chu Trầm Nguyên Minh

22/02/202407:51:00(Xem: 3020)

LỜI TÌNH BUỒN

Lời tình bun

 

Anh đi rồi còn ai vuốt tóc

Lời tình thơm sách vở học trò

Đêm xuống rồi em buồn không hở

Trời xa mù tầm tay với âu lo

 

Anh đi rồi còn ai đưa đón

Áo em bay khuất mất thiên đường

Tuổi hai mươi vòng tay chờ đợi

Ngôn ngữ nào anh nói hết yêu thương

 

Anh đi rồi còn ai chiêm ngưỡng

Cổ em cao tay mười ngón thiên thần

Tóc em xanh trùng dương sóng lượn

Anh chợt buồn đứng ngóng bâng khuâng

 

Anh đi rồi còn ai tình tự

Đêm đầy trời ru tiếng nhớ bơ vơ

Phúc yêu em dấu lần quá khứ

Nụ hôn đầu rụng xuống hư vô.

(Chu Trầm Nguyên Minh)

 

Bài thơ với 4 khổ thơ, được láy lại cụm từ “Anh đi rồi” ở đầu mỗi câu thơ như một khẳng định… buồn cho tình yêu, bởi một trong hai người là chủ thể tình yêu lại “đi rồi”, có nghĩa là khuyết đi, mất đi, thì làm sao mà trọn vẹn, mà vui được? Vũ Hoàng Chương cũng đã từng viết: “Đời vắng em rồi say với ai?”, huống gì Chu Trầm Nguyên Minh với các hành động cụ thể trong tình yêu: “ai vuốt tóc, ai đưa đón, ai chiêm ngưỡng và ai tình tự”, lời thơ thật buồn và cũng thật trong trẻo, hồn nhiên khi: “Anh đi rồi còn ai vuốt tóc/ Lời tình thơm sách vở học trò/ Đêm xuống rồi em buồn không hở/ Trời xa mù tầm tay với âu lo” . Ba câu thơ 7 chữ, câu thơ thứ 4 lại 8 chữ, giai điệu đẹp, nhè nhẹ như lời tình thủ thỉ. Đó là tuổi hai mươi cùng với khoảng thiên đường tình yêu thật ngọt ngào đằm thắm: “Anh đi rồi còn ai đưa đón/ Áo em bay khuất mất thiên đường/ Tuổi hai mươi vòng tay chờ đợi/ Ngôn ngữ nào anh nói hết yêu thương”. Mối tình của tuổi hai mươi, cũng là mối tình của tuổi học trò, của tuổi mới lớn, khi mà “Lời tình thơm sách vở học trò” cùng với “Áo em bay khuất mất thiên đường”? Không điển cố, điển tích như thơ cũ. Các từ như “thơm sách vở học trò, khuất mất thiên đường”, mang nét mới của thập niên 60 của thế kỷ trước, khi mà nhà thơ đang “lăn lộn” với sách vở ở Nha Trang, rồi sau đó là Qui Nhơn, cùng mối tình đầu với một cô tên Sâm ở quê nhà Phan Thiết, thật đẹp và lãng mạn. Chu Trầm Nguyên Minh, khi ấy vẫn là một chàng trai nghèo, tay trắng. Mồ côi cả cha lẫn mẹ với một cuộc đời... buồn. Thi sĩ tên thật là Phạm Minh Tâm, sinh năm 1943 tại làng Phú Bình, Hàm Liêm, Phan Thiết, nhưng quê gốc ở Đức Phổ, Quảng Ngãi, lận đận sống cùng người chú, vừa mưu sinh, vừa tìm con chữ để học, từ Nha Trang, rồi Qui Nhơn, lại trở ngược vào Phan Rang, Phan Thiết, để được theo học Sư phạm và trở thành một Giáo sư Toán ở Phan Rang từ năm 1965. Ông có nhiều mối tình ở những nơi mình đi qua, nhưng cũng là... “Tình buồn”! Theo lời kể của thi sĩ, nàng là người chủ động chia tay để đi lấy chồng khi đang học lớp đệ nhị (11 bây giờ), nhưng bài thơ lại là lời “của người con gái”, và rồi bài thơ được tiếp tục: “Anh đi rồi còn ai chiêm ngưỡng/ Cổ em cao tay mười ngón thiên thần/ Tóc em xanh trùng dương sóng lượn/ Anh chợt buồn đứng ngóng bâng khuâng”. Người xưa nói “Cổ cao ba ngấn” là người con gái đẹp, quý phái. Người con gái của Chu Trầm Nguyên Minh lại có thêm bàn tay “mười ngón thiên thần”, rồi tóc “ em xanh trùng dương sóng lượn”, vậy mà… “anh đi rồi” thì còn ai chiêm ngưỡng? và chắc là người con gái ấy cũng sẽ “biếng điểm trang gương lược”? Một điều buồn và tất yếu của tình yêu!
    Bài thơ kết thúc: “Anh đi rồi còn ai tình tự/ Đêm đầy trời ru tiếng nhớ bơ vơ/ Phúc yêu em dấu lần quá khứ/ Nụ hôn đầu rụng xuống hư vô.” Như một sự hụt hẩng, bất ngờ, với “ còn ai tình tự, tiếng nhớ bơ vơ…”, không một giận hờn, oán trách, hay cay nghiệt như Nguyễn Tất Nhiên là: “ Khiến người tên Duyên đau khổ muôn niên…” Chỉ kịp nhận thấy: “Phúc yêu em, dấu lần quá khứ/ Nụ hôn đầu rụng xuống hư vô”, một hình ảnh thật… buồn, cũng thật lãng mạn. Ở đây cũng cần phải nhấn mạnh hai từ ở đầu câu thơ áp chót là “ PHÚC yêu em”, khác với lời trong nhạc phẩm “Lời tình buồn”, Vũ Thành An đã sửa lại là “PHÚT yêu em” có vẻ “thoáng qua” và ngắn ngủi hơn là “Phúc yêu em” là hạnh phúc được yêu em, là yêu em mãi mãi, dài lâu, đây cũng chính là sự “tự tình” sâu nặng và cả cam chịu lẫn hạnh phúc với tình yêu ấy, vì vậy, “Nụ hôn đầu rụng xuống” là một hình ảnh ý vị, rất mới, và cũng ẩn dụ bao điều. Phải chăng tác giả, thay lời người yêu để chấp nhận một cuộc tình buồn, không thành đôi lứa, nhưng đẹp và thánh thiện của những người yêu nhau, tôn thờ tình yêu, luôn giữ mãi cho mối tình thật đẹp để mãi mãi còn nhớ đến nhau?
    Giờ thì nhà thơ Chu Trầm Nguyên Minh đã “đi” thật rồi, và đi rất xa vào chốn “thiên đường” của riêng ông (Ông mất lặng lẽ vào ngày 19 tháng 2 năm 2014 tại Sài Gòn), mới đó mà đã 10 năm, trong sự tưởng nhớ không nguôi của những người mến mộ thơ ông và luôn nhớ mãi bài thơ, ca từ của nhạc phẩm “Lời tình buồn” vẫn còn vang vọng trên cõi thế gian này, thấm sâu vào hồn người để yêu nhau và duy trì cái đẹp trong tình yêu con người…

 

– Trn Hoàng Vy

CHU TRẦM NGUYÊN MINH 2
Nhà thơ Chu Trầm Nguyên Minh trong một bức hình ở tuổi xế chiều.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tờ Việt Báo Kinh Tế số 28 ngày 13 tháng 2 năm 1993 có đăng bài thơ “Lửa, Thấy Từ Stockholm” của nhà thơ Trần Dạ Từ, nhân tuần lễ nhà văn Thảo Trường thoát khỏi nhà tù lớn đến định cư ở Hoa Kỳ. Đây là bài thơ Trần Dạ Từ viết từ 1989 rời Việt Nam, khi được các bạn Văn Bút Thụy Điển mời ăn cơm chiều, Ông nhớ đến bạn còn ở trong tù khổ sai dưới chân núi Mây Tào, Hàm Tân. 33 năm đã trôi qua kể từ ngày chúng ta chào đón nhà văn Thảo Trường đến Hoa Kỳ, 15 năm kể từ ngày Thảo Trường từ bỏ thế gian, Chiều Chủ Nhật tuần này, 22 tháng Sáu, nhân dịp tái xuất bản bốn cuốn sách của Thảo Trường (Hà Nội, Nơi Giam Giữ Cuối Cùng; Người Khách Lạ Trên Quê Hương; Ngọn Đèn; Lá Xanh), bạn bè văn hữu và gia đình cùng tề tựu tưởng nhớ Nhà Văn. Việt Báo trân trọng mời độc giả cùng đọc, cùng nhớ nhà văn lớn của chúng ta, một thời, một đời.
Thăm nuôi năm thứ mười: trại Z30D Hàm Tân, dưới chân núi Mây Tào, Bình Tuy. Cuối năm 1985, mấy trăm người tù chính trị, trong đó có cánh nhà văn nhà báo, được chuyển từ trại Gia Trung về đây. Hồi mới chuyển về, lần thăm nuôi đầu, còn ở bên K1, đường sá dễ đi hơn. Cảnh trí quanh trại tù nặng phần trình diễn, thiết trí kiểu cung đình, có nhà lục giác, bát giác, hồ sen, giả sơn... Để có được cảnh trí này, hàng ngàn người tù đã phải ngâm mình dưới nước, chôn cây, đẽo đá suốt ngày đêm không nghỉ. Đổi vào K2, tấm màn hoa hòe được lật sang mặt trái: những dãy nhà tranh dột nát, xiêu vẹo. Chuyến xe chở người đi thăm nuôi rẽ vào một con đường ngoằn nghoèo, lầy lội, dừng lại ở một trạm kiểm soát phía ngoài, làm thủ tục giấy tờ. Xong, còn phải tự mang xách đồ đạc, theo đường mòn vào sâu giữa rừng, khoảng trên hai cây số.
Theo một ý nghĩa nào đó, Farrington đóng vai trò là một kiểu người có thể thay thế hoặc tồn tại ở bất cứ đâu, có thể là một nhân vật đặc trưng nào đó nhưng cũng có thể là một người bình thường. Bằng cách chọn chủ thể như thế, Joyce đưa Farrington vào bối cảnh đường phố Dublin và gợi ý rằng sự tàn bạo của gã không có gì là bất thường. (Lời người dịch).
Thông thường người ta thỏa thuận những tác phẩm và những tác giả đó thuộc về văn học bản xứ với phụ đề “gốc Việt.” Thỏa thuận đó đặt cơ bản trên ngôn ngữ, có tên gọi “ngôn ngữ chính thống”, còn tiếng Việt là “ngôn ngữ thiểu số.” Tất cả những ý nghĩa này được nhìn thấy và định nghĩa từ những người bản xứ của ngoại ngữ. Còn người Việt, chúng ta nhìn thấy và nghĩ như thế nào? Hai tập thơ tiếng Hán của Nguyễn Du, thuộc về văn học Trung Quốc hay Việt Nam? Những bài viết, sách in tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Latin của các học giả và các linh mục dòng tên, thuộc về văn học nào?
Đứa trẻ đi học bị bạn bè bắt nạt ở trường về nhà mét mẹ, một đứa trẻ bị trẻ con hàng xóm nghỉ chơi, về nhà mét với mẹ, cô con gái bị người yêu bỏ về tâm sự với mẹ, v.v., nói chung những đứa trẻ cần bờ vai của mẹ, bờ vai mẹ là nơi các con nương tựa. Con cái thường tâm sự với mẹ về những phiền não hàng ngày hơn tâm sự với cha. Ngày của mẹ là ngày tưng bừng, náo nhiệt nhất. Cha thường nghiêm nghị nên trẻ con ít tâm sự với cha. Nói như thế, không có nghĩa là trẻ con không thương cha? Không có cha làm sao có mình, cho nên tình thương cha mẹ cũng giống nhau, nhưng trẻ con gần mẹ hơn gần với cha. Khi đi học về, gọi mẹ ơi ới: mẹ ơi, con đói quá, mẹ ơi, con khát quá, mẹ ơi, con nhức đầu, mẹ ơi,... Tối ngày cứ mẹ ơi, mẹ ơi. Nhất là những đứa trẻ còn nhỏ, chuyện gì cũng kêu mẹ.
Giải thưởng cho thể loại Tiểu Thuyết (Fiction) về tay nhà văn Percival Everett với tác phẩm James. Tiểu thuyết James là sự tái hiện nhân vật Huckleberry Finn trong tiểu thuyết Adventures of Huckleberry Finn của văn hào Mark Twain. Nhà văn Percival Everett kể lại góc nhìn của Jim, người bạn đồng hành của Huck bị bắt làm nô lệ trong chuyến du lịch mùa Hè. Trong James, Percival Everett đã trao cho nhân vật của Jim một tiếng nói mới, minh họa cho sự phi lý của chế độ chủng tộc thượng đẳng, mang đến một góc nhìn mới về hành trình tìm kiếm gia đình và tự do.
Văn học miền Nam tồn tại mặc dù đã bị bức tử qua chiến dịch đốt sách và cả bắt bớ cầm tù đầy đọa những người cầm bút tự do sau ngày Cộng sản Bắc Việt chiếm lĩnh miền Nam. Chẳng những tồn tại mà nền văn học ấy đã hồi sinh và hiện đang trở thành niềm cảm hứng cho các thế hệ Việt kế tiếp không chỉ ở hải ngoại mà còn cả trong nước. Có lẽ chưa có một nền văn học nào trên thế giới đã có thể thực hiện được những thành quả trong một thời gian ngắn ngủi chưa đầy một thế hệ như vậy. Bài viết này sẽ tổng kết các lý do dẫn đến thành quả của văn học miền Nam trong 20 năm, từ 1954 tới 1975, một trong hai thời kỳ văn học phát triển có thể nói là rực rỡ và phong phú nhất của Việt Nam (sau nền văn học tiền chiến vào đầu thế kỷ 20). Tiếp theo là việc khai tử văn học miền Nam qua chiến dịch đốt và tịch thu các văn nghệ phẩm, cầm tù văn nghệ sĩ của Việt cộng. Và kế là những nỗ lực cá nhân và tự nguyện để phục hồi văn học miền Nam tại hải ngoại và hiện trở thành nguồn cảm hứng cho các thế hệ Việt..
Văn học luôn được xây dựng trên tác giả, tác phẩm và độc giả, với những cơ chế tất yếu là báo, tạp chí văn học, nhà xuất bản, mạng lưới văn chương, và phê bình. Gần đây thêm vào các phương tiện thông tin xã hội. Trên hết là quyền lực xã hội nơi dòng văn học đang chảy, bao gồm chính trị, tôn giáo. Giá trị của một giai đoạn văn học được đánh giá bằng những thành phần nêu trên về sáng tạo và thẩm mỹ qua những cơ chế như tâm lý, ký hiệu, cấu trúc, xã hội, lịch sử… Việc này đòi hỏi những nghiên cứu mở rộng, đào sâu theo thời gian tương xứng.
Có lần tôi đứng trước một căn phòng đầy học sinh trung học và kể một câu chuyện về thời điểm chiến tranh Việt Nam chấm dứt, về việc tôi đã bỏ chạy sang Mỹ khi còn nhỏ, và trải nghiệm đó vẫn ám ảnh và truyền cảm hứng cho tôi như thế nào, thì một cô gái trẻ giơ tay hỏi tôi: “Ông có thể cho tôi biết tại sao cha tôi không bao giờ kể cho tôi nghe về cuộc chiến đó không? Cha tôi uống rượu rất nhiều, nhưng lại ít nói.” Giọng nói cô run rẩy. Cô gái bảo cha cô là một người lính miền Nam Việt Nam, ông đã chứng kiến nhiều cảnh đổ máu nhưng nỗi buồn của ông phần nhiều là trong nội tâm, hoặc nếu đôi khi thể hiện ra ngoài thì bằng những cơn thịnh nộ.
Chiến tranh là một nỗi đau dằn vặt của nhân loại vì không ai muốn nó xảy ra, nhưng chiến tranh vẫn cứ xảy đến như một điều kiện cần thiết biện minh cho sự tồn tại của thế giới con người. Ngày Ba mươi tháng 4 năm 1975 là một cột mốc đánh dấu một biến cố chính trị trong lịch sử chính trị thế giới, ngày cuộc chiến tranh Việt Nam (1954-1975) chấm dứt.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.