Hôm nay,  

Cây khuynh diệp

30/12/202310:24:00(Xem: 2482)
Tùy bút

khuynh diep trang

1.

Hôm thứ sáu 8/12 vừa qua, dự báo thời tiết cho biết vùng Liverpool – nơi gia đình tôi cư ngụ – phải chịu đựng thêm một ngày nóng khủng khiếp, cỡ trên 40 độ C nữa. Con tôi bàn: “Để trốn nóng thì nhà mình đã đi ra biển, bãi Manly hôm kia. Giờ lên rừng, lên núi đi bố!” Tôi OK ngay vì thoáng nghĩ hồi còn ở Việt Nam, tránh cái nóng ở thành phố thì dân Sài Gòn hễ có điều kiện thì cũng có thể chọn, hoặc đi ra biển hoặc đi lên rừng núi. Đó là ra Vũng Tàu. Long Hải tắm biển, ăn hải săn – hoặc đi lên cao nguyên, rừng núi Đà Lạt, Lâm Đồng ngắm hoa, ăn trái cây…
    Gần trưa thì chúng tôi đến khu du lịch thác nước Fitzroy, thuộc vùng cao nguyên phía Nam bang New South Wales. Lao từ độ cao 81 m xuống thung lũng Yarrunga, Fitzroy Falls là thắng cảnh nổi bật nhất trong Công viên quốc gia Morton… ‘Lý lịch’ cái thác xin vắn tắt thế thôi, để nói ngay điều tôi hết sức muốn nói là trên con đường mòn đi bên cạnh thác, tình cờ có một cây cổ thụ không cao lắm nhưng gốc thật to. Theo bảng hướng dẫn cùng ảnh chụp treo bên cạnh cây, đây là cây tên ‘Gum Tree’, thuộc họ Khuynh diệp (Eucalypts, có thể cao đến 90m và sống đến 400 năm).
    Điều đáng nể phục và cũng đáng yêu quý là, sau trận cháy rừng năm 2019/2020, vùng thác Fitzroy tiêu điều tàn tạ –  nhưng chỉ trong vòng 1 tuần sau đám cháy, trên cây khuynh diệp cổ thụ này đã có những chồi lá thật tươi non, đầy sức sống lại ngông nghênh nhô ra từ lớp vỏ cây xù xì đã cháy xém… 
 
2.
Ngắm cái ảnh ‘đại lão’ cổ thụ khuynh diệp bên thác Fitzroy, tôi ngẩm nghĩ, té ra không rõ bởi cơ duyên huyền diệu nào mà cây khuynh diệp đã từng đến với đời tôi rất sớm…
    Lãng đãng trong trí nhớ, thời tôi mới 13-14 tuổi (1962-63), có lẽ lúc nào đó bị cảm mạo gì đó nên mẹ bắt xông cho mau khỏe. Chẳng hay ho, dễ chịu khi phải trùm mền ngột ngạt và chịu trận cái nồi lá xông nóng ngùn ngụt, nhưng công nhận rất dễ chịu khi mũi cảm nhận cái mùi lá khuynh diệp bốc lên rất rõ trong hơi nóng nồi xông. Đúng ra, ngay từ nhỏ tôi đã thấy trong nhà có mặt chai dầu khuynh diệp (1), vài khi cũng lấy xức vào chỗ da thịt bị trầy xướt hay bị kiến cắn…, nhưng cái mùi thơm từ lá khuynh diệp ngâm nước sôi nồi xông thì dịu êm hơn mùi dầu khuynh diệp qua chưng cất, đựng trong chai.
    Cũng tuổi 13-14, khi vào hướng đạo (SCOUT) , đã vài lần tôi đến cắm trại ở một ngọn đồi tạm gọi là ‘đồi bác sĩ TÍN’ (1) vùng Thủ Đức, nằm phía bên phải xa lộ Biên Hòa.Thú thật, hồi đó do tôi chưa biết gì về chuyện ông BS Tín tìm giống cây khuynh diệp ở tận Úc Đại Lợi đem về trồng trong nước để bào chế loại dầu gió nổi tiếng made in Vietnam, nên tôi đã không tìm tòi, quan sát gì về những cây khuynh diệp trồng cả dãy ở khu đồi này.
    Có điều là thời đó, một kỳ trại ngủ lại đêm ở đồi BS Tín đã ghi khắc sâu xa trong tâm tưởng tôi. Đêm tôi, dưới những tán cây khuynh diệp, tôi được các trưởng đặt ‘tên rừng’. Đó là nghi thức đánh dấu một bước trưởng thành của mỗi hướng đạo sinh, các trưởng trong ‘Hội đồng Rừng’ sẽ đưa ra những thử thách, chất vấn để tìm hiểu về tánh khí, năng khiếu, khả năng tháo vát, ứng phó tình hình cùng suy nghĩ, lý luận của em hướng đạo sinh, cuối cùng ‘Hội đồng Rừng’sẽ chọn/đặt ‘tên rừng’ cho em – đó là tên một con vật kèm theo một đức tính, ví dụ: NAI Chăm Chỉ, VOI Thận Trọng, BỒ NÔNG Hoạt Bác, MÈO Lém Lỉnh.v.v… 
    Còn tôi? Tôi còn nhớ khá rõ là đêm đó mình đã bị Hội đồng Rừng thử thách, tra vấn gay go lắm chớ nào phải dễ dãi, đại khái. Chẳng hạn khi các trưởng đưa tôi đến bên miệng một cái hố phân dã chiến (đào khá rộng, dùng cho cả trại), đã hỏi tôi có dám nhảy xuống hố không. Tôi thầm nghĩ: “Lại thử thách lòng can đảm đây mà. Giống như vừa rồi hỏi mình có dám cỡi giày đi cẳng không vào đống lửa trại chơi hồi sớm nên đã nguội ngắt…. Giờ đến hố phân thì cũng có gì là ghê gớm đâu, chỉ dơ chân cẳng thôi chớ có đe dọa mạng sống đâu?” nên đáp tỉnh bơ: “Thưa Hội đồng Rừng, em sẽ nhảy xuống hố nhưng vì giờ này trong trại, xe xi-tẹc đã cạn nước xài nên không có gì bảo đảm là em đủ sạch sẽ, tề chỉnh khi sáng mai dự lễ chào cờ và nghe Câu Chuyện Dưới Cờ của trại trưởng…” Một trưởng ngắt lời tôi: “Hội đồng Rừng hỏi em có dám nhảy xuống hố phân hay không thì em lo trả lời cho nhanh, gọn đi, còn‘nhưng nhị’gì nữa? Nói nhiều quá đấy!”. Tôi đáp ngay: “Dạ, thì em nhảy đây!” Tôi vừa nhún chân nhảy vào miệng hố thì lập tức một trưởng đứng cạnh đã ôm tôi lại… Thế đấy, không rõ đêm đó rốt cuộc Hội đồng Rừng đã ‘bắt mạch’ được tánh nết, năng lực của thằng tôi ra sao mà đã đặt cho tôi cái tên nghe y như ‘học sinh cá biệt’ (loại hay quậy trong lớp) trong bảng xếp loại HS bên ngành giáo dục –  đó là NGỖNG Bướng, thưa quý vị.
 
3.
Dù sao thì tôi cũng rất có duyên với  ngọn đồi trồng cây khuynh diệp của bác sĩ TÍN. Bước vào đời, do tình hình đất nước sôi bõng năm 1972 ‘Mùa hè đỏ lửa’, tôi đã nhập ngũ, đầu 1973 vào Trường BB Thủ Đức thì khi học môn chiến thuật, nhiều lần đại đội SVSQ chúng tôi từ trại di chuyền/đi bộ khoảng 4-5km ra đến mí xa lộ Biên Hòa, lên ‘Bãi chiến thuật số …’ mà tôi nhận ra ngay là ‘đồi bác sĩ TÍN’, một nơi chốn dường như đã là CỦA MÌNH từ thuở mình mới 14 tuổi!
    Vào một lần ‘học bãi’ chiến thuật như thế, đến phiên tôi ‘đội nón vàng’, tức ngày thường thì đứng trong hàng quân của trung đội 431 (tức trung đội 1, đại đội 43, tiểu đoàn 4 SVSQ, thuộc Liên đoàn SVSQ trường BB), nay tôi phải bước lên trước trung đội, nhận chức trung đội trưởng lâm thời qua thủ tục đội cái nón “luân chuyển” sơn màu vàng và có ngay một tên SVSQ mang máy truyền tin PRC 25 luôn đi bên cạnh để sẵn sàng gọi máy theo lịnh tôi. Hôm đó, khi cả đại đội học xong phần lý thuyết về một đội hình tác chiến gì đó cấp trung đội, đại đội giải tán để các trung đội lui về một góc riêng để chuẩn bị cho phần thực tập, gồm: lập sa bàn, phổ biến cách hành quân và phản ứng theo tình huống, di chuyển theo đội hình, núp phục kích, tấn công bằng súng bắn đạn mã tử vào mấy tên SVSQ khoác áo bà ba đen giả làm vi-xi… Có điều là khi cần ra lịnh, liên lạc bằng PRC25 bên cạnh mình với ba cái PRC25 của ba tiểu đội, theo lệ trên truyền tin quân sự thì phải mã hóa/đổi tên chính mình cùng ba nơi nhận ấy, là ‘trung (đội) trưởng 43MỘT’, rồi ‘tiểu đội MỘT’, ‘tiểu đội HAI’ và ‘tiểu đội BA’ thành những cái tên khác theo quy ước. Tôi lại không hề thuộc bảng quy ước mã hóa 24 chữ cái trên truyền tin, chỉ nhớ đại khái chữ ‘A’ là Alpha, ‘B’ là Bắc Bình’, ‘C’ là Cải Cách, ‘D’ là Đống Đa…, đến chữ ‘N’ là Non Nước nhưng kế đó, chữ ‘M’ mã hóa cho chữ ‘MỘT’ thành chữ gì thì tôi bí, hỏi thằng mang máy PRC25 nó cũng bí luôn! 
    Căng quá! Tôi rất lúng túng nhưng sực nhớ đây là liên lạc nội bộ giữa tôi (cấp trung đội) với ba tiểu đội thống thuộc thì gọi sao cho dễ nhớ trong nội bộ trung đội là được, chớ chắc ít có lỗ-tai-kiểm-duyệt từ ngữ mã hóa nào nghe ké nên tôi thả lỏng mình về cái thời chơi hướng đạo với tên rừng ‘Ngỗng Bướng’, cũng là thời tôi bày đặt chơi thi văn đoàn học trò, với vô vàn mơ mộng, hoang tưởng lãng đãng… 
    OK, căn bản là đang liên lạc trong nội bộ trung đội MỘT, thì MỘT mã hóa thành MỘNG. Nhất định đâu có ‘đụng hàng’ ai? 
    Cứ thế, tôi đang là ‘trung (đội) trưởng bốn ba MỘT’ nay mã hóa thành MỘNG BÌNH THƯỜNG, rồi ‘tiểu đội MỘT’ thành MỘNG MỊ MỘT, ‘tiểu đội HAI’ thành MỘNG MỊ HAI và ‘tiểu đội BA’ thành MỘNG MỊ BA.
    Đem một lô chữ MỘNG nói trên hỏi ý kiến thằng mang máy PRC25, liệu anh em ở ba tiểu đội có dễ nhớ không cho anh em ở ba tiểu đội, thì thiệt vui là cậu mình tán thành nhiệt liệt, “Chu choa, ông là MỘNG BÌNH THƯỜNG, trong nhạc Phạm Duy chớ gì, nghe quá quen, đưa vô tần số thì đứa nào chẳng nhớ? Còn MỘNG MỊ MỘT, MỘNG MỊ HAI, MỘNG MỊ BA nghe vui lắm vì có cái ‘e’ (2) ‘phăng te zi’(2), chớ bắt tui kêu máy cứ chan chát cái kiểu Bắc Bình, Cải Cách, Đống Đa, Non Nước… nghe khô khốc, chán thấy mồ thấy tổ! Vậy ông cầm combinaison báo cho ba tiểu đội thi hành liền đi!”
    Vậy là ngày ấy, cũng ở ngọn ‘đổi bác sĩ Tín’ trồng toàn cây khuynh diệp, nơi năm 14 tuổi tôi đã đến cắm trại hướng đạo và được các huynh trưởng đặt cho tên rừng hơi ‘cá biệt’ (quậy!) là ‘NGỖNG Bướng’, đến năm 24 tuổi tôi lại quay lại với tư cách SVSQ và đã lãng đãng một chút… Đó là khi nắm quyền trung đội trưởng lâm thời trung đội MỘT, tôi ra lịnh 3 tiểu đội cấp dưới khi gọi liên lạc nội bộ thì cứ mã hóa chữ MỘT thành… MỘNG – một chữ không có trong bảng mã hóa truyền tin nhưng tôi thích thế! Và nhờ Trời thương, trung đội tôi vẫn hoạt động tốt đẹp, tham dự thành công buổi học chiến thuật hôm đó…

Phạm Nga
(Sydney, đầu tháng 12/2023)
 
(1)  DẦU KHUYNH DIỆP BS TÍN ra đời khoảng cuối thập niên 40 của thế kỷ trước, sau khi BS Bùi Kiến Tín chuyển nhà thuốc Đông Dược từ Quảng Nam vào Sài Gòn thành lập nhà thuốc BS Tín, bào chế ra loại dầu gió made in Vietnam có thương hiệu cùng tên. Đặc biệt, ‘ĐỒI BS TÍN’ trong bài chính là ngọn đồi tên là ĐỒI VIỄN, rộng 30 mẫu ở Thủ Đức thời xưa (nay là Đài tưởng niệm các vua Hùng, thuộc Quận 9, TP.HCM), Vì có lẽ do nhận thấy nhập nguyên liệu từ nước ngoài về sẽ đẩy giá thành chai dầu gió lên cao, nên vào năm 1954, BS Tín đã cho trồng cây khuynh diệp phủ khắp khu trại ĐỒI VIỄN.

(2)   ‘e’: đọc từ âm tiếng Pháp ‘air’, trong bài có nghĩa là giọng điệu,‘phăng te zi’: đọc từ âm tiếng Pháp ‘fantaisie’, có nghĩa là biến cách, biến điệu.

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Vốn là một quân nhân, sau khi triệt thoái từ miền Trung về Saigon, tôi được bổ xung cho một đơn vị pháo binh đang hành quân ở vùng Củ Chi, Tỉnh Tây Ninh, yểm trợ sư đoàn 25 Bộ BinhB. Khoảng ba tuần trước khi mất nước tôi bị thương ở chân. Nằm trong quân y viện Tây Ninh vài ngày, bác sĩ cho về nhà dưỡng thương một tháng ở Saigon.
Ngày xưa, thông thường, chồng của cô giáo được gọi là thầy, cũng như vợ của thầy giáo được gọi là cô. Cho dù người chồng hoặc vợ không làm việc trong ngành giáo dục. Nhưng trường hợp cô giáo tôi, cô Đỗ Thị Nghiên, trường Nữ Tiểu Học Quảng Ngãi thì khác. Chồng của cô, thầy Nguyễn Cao Can, là giáo sư dạy trường Nữ Trung Học Quảng Ngãi. Cô Đỗ Thị Nghiên dạy lớp Bốn, trường Nữ Tiểu Học. Trong mắt nhìn của tôi, của con bé mười tuổi thuở ấy, cô Nghiên là một cô giáo rất đặc biệt. Cô nói giọng bắc, giọng nói trầm bổng, du dương. Tóc cô ngắn, ôm tròn khuôn mặt. Da cô trắng nõn nà. Có lần ngoài giờ học, trên đường phố của thị xã Quảng Ngãi, tôi thấy hai vợ chồng thầy Can, cô Nghiên đèo nhau trên xe gắn máy. Cô mặc jupe, mang kính mát, ngồi một bên, tréo chân, khép nép dựa vai thầy. Ấn tượng để lại trong trí của con bé tiểu học là hình ảnh của đôi vợ chồng sang trọng, thanh lịch, tân thời, cùng mang thiên chức cao cả: dạy dỗ lũ trẻ con nên người.
Tháng Tư này tròn 50 năm biến cố tang thương của miền Nam Việt Nam, những người Việt hải ngoại, đời họ và thế hệ con cháu đã trưởng thành và thành công trên xứ người về mọi mặt học vấn cũng như công ăn việc làm. Họ đang hưởng đời sống ấm no tự do hạnh phúc đúng nghĩa không cần ai phải tuyên truyền nhồi sọ. Nhưng trong lòng họ vẫn còn bao nhiêu kỷ niệm thân thương nơi chốn quê nhà.
Có một buổi trưa, hai đứa đang thưởng thức bò bía, đậu đỏ bánh lọt ở chùa Xá Lợi, góc Bà Huyện Thanh Quan và Ngô Thời Nhiệm (?), thì gặp một "cái bang". Đầu đội khăn rằn, đeo mắt kiếng cận nặng, cổ quấn vài ba chiếc khăn đủ màu và ông còn dẫn theo hai con chó, vừa đi vừa múa tay múa chân như người say rượu. Chừng như ông không cần thấy ai, chung quanh chỉ có ông và hai con chó. Người đàn ông "cái bang" đó là nhà thơ, nhà văn, nhà biên khảo nổi tiếng của Việt Nam: Bùi Giáng. Hai con chó vừa đi vừa sủa vang, khiến một số nữ sinh Gia Long đang đứng quanh xe bò bía, vội vã chạy né qua bên kia đường. T
Một ngày nọ, ngài gặp một bà mẹ, bà ôm một đứa con vừa mất vừa đi vừa khóc lóc thảm thiết, ai cũng mũi lòng thương, thông cảm vì mất con là nỗi đau khổ nhứt trong cuộc đời… người ta mách bảo là bà nên gặp Sa Môn Cồ Đàm, bà sung sướng bế con đã mất đi ngay và gặp phật, xin phật dùng phép thần thông cứu sống con bà. Xung quanh phật, các tì kheo đang ngồi cầu nguyện cho chúng sanh được giải thoát và cũng cầu nguyện cho các chúng sanh còn tại thế sẽ may mắn mà gặp được giáo pháp của Như Lai. Rồi người mẹ đau khổ cũng được gặp phật.
Cuối tháng Ba, những cơn gió nóng tràn về thành phố. Một hai trận mưa lạc loài đến sớm rồi thôi. Không khí ngột ngạt. Mùi đất nồng khó chịu. Như một cô gái uể oải trong cơn bệnh, thành phố trông mệt mỏi, rạc rời. Đoan đi vào Câu lạc bộ của trường. Bình thường, cứ đến thứ Sáu là không khí chuẩn bị cho chiều văn nghệ thứ Bảy lại nhộn nhịp. Nhưng hôm nay, như có một cái gì kéo mọi thứ chùng xuống. Chị Thuận, người phụ trách Câu lạc bộ, mỉm cười khi thấy Đoan, nhưng là một nụ cười kém tươi. Chị vẫn câu chào hỏi thường lệ: “Em uống gì không?” “Dạ, chị cho em nước chanh.” Chị Thuận pha ly nước chanh đặc biệt, nóng, ít đường, mang đến để trước mặt Đoan, và kéo ghế ngồi xuống bên Đoan. Hình như không có gì để bắt chuyện, chị Thuận nhìn ra sân, nói nhỏ:
Tôi khép cánh cửa phòng ngủ, rón rén bước ra, sợ gây tiếng động làm thằng cháu nội lại giật mình thức giấc; thằng bé đã mười tháng tuổi, biết làm đủ thứ trò như con khỉ con, chiếc mũi bé xíu của nó chun lại, đôi môi dầy cong lên, mỗi khi bà nội bảo nó làm xấu, thật dễ thương, canh nó hơi mệt vì phải chơi cho nó đừng chán, lèo nhèo, nhưng chơi nhiều thì sức bà nội có hạn, làm sao chạy theo nó cả ngày được!
Những cái mặt hướng về phía trước. Những cái đầu hơi cúi, những cái lưng hơi còng có lẽ bởi sức nặng của chiếc ba lô đeo sau lưng, hay tại - nói một cách màu mè, văn vẻ, đầy giả dối là - gánh nặng của đời sống. Trước mặt tối đen. Bên phải là những cánh cửa cuộn bằng tôn đóng kín. Những cánh cửa lạnh lùng, vô cảm; lầm lì từ khước, âm thầm xua đuổi. Dưới chân là nền xi măng. Cứng và lạnh. Không thể là nơi tạm dừng chân, nghỉ mệt. Sâu vào phía sát vách là nền lót những viên gạch vuông. Không một cọng rác. Không một bóng chó hoang, mèo lạc. Không cả những hình hài vô gia cư bó gối vẩn vơ nhìn nhân gian qua lại.
Đức hạnh cao quý thể hiện thành tâm vô phân biệt. Tâm vô phân biệt tạo thành một sự bình đẳng tuyệt đối trong giáo pháp của đức phật. Giáo pháp thâm sâu vi diệu của Như Lai thì không phải ai cũng hiểu hết, cũng ngộ được điều đó đa phần các vị đại trí thấu đạt. Còn lòng từ bi của phật thì lan tỏa vô phân biệt như ánh sáng mặt trời soi sáng khắp nơi nơi, như mưa rơi tắm mát đại ngàn. Những lời giảng dậy trên đây được dẫn chứng nhiều và rõ nhứt là ở phật giáo Tây Tạng.
Anh Hai của tôi, sau chuyến vượt biên thất bại, bị giam ở nhà tù Bình Đại Bến Tre chín tháng, khi trở lại trường Phan Thanh Giản, Cần Thơ mới biết đã bị cắt hộ khẩu, mất việc làm, bèn quay về Sài Gòn sống tạm với gia đình, chờ cơ hội vượt biên tiếp theo. Một hôm, anh bị cơn sốt rét tái phát hành hạ, (hậu quả của những ngày trong trại giam), cần phải đến bệnh viện chữa trị, nhưng hộ khẩu không có, anh bèn mượn cái Sổ Sức Khỏe của thằng cháu (con bà chị họ ở kế bên nhà), để đi khám bệnh
Năm đó, tôi qua Arlington,Texas thăm gia đình, rồi ghé Dallas thăm người hàng xóm cũ thân thiết từ khi còn ở Việt Nam . Chú Thím ấy đónvợ chồng tôi nồng hậu như mọi khi, bữa ăn đặc sản món Huế như tôi yêu cầu, sau đó kéo nhau ra phòng khách ăn bánh uống trà . Rồi Thím gọi cháu ngoại: - Thiên Ân ơi, ra đây ca hát cho hai bác Canada nghe đi con.-Cô bé hai, ba tuổi tung tăng ngoan ngoãn khoanh tay chào chúng tôi, rồi bạo dạn chạy ra giữa phòng, tay giả bộ cầm micro phone, rồi nhún nhảy tự nhiên hát một bài hát Tiếng Việt thật rõ ràng .
Ngày xưa rất xa xưa, ở vùng quê thôn dã, người dân sống giản dị, đơn sơ, mộc mạc; người ta trồng tỉa những vườn rau cải, vườn ngô, vườn cà… lấy hoa lợi để sống. Thường thường có chim chóc kiếm ăn đến phá phách, dãi dãi, mổ mổ những hạt mới ươm trồng hay những nụ hoa mới ra, chúng ăn, với con người trồng tỉa lấy hoa lợi là chúng nghịch ngợm và phá hoại, ăn khín. Mới đầu chúng đến một vài con, sau rủ nhau đến nhiều hơn, cả nhà cả đàn chim chóc… và người gia chủ trồng tỉa phải tìm cách bảo vệ hoa màu của họ, nguồn sống của họ.
DB Derek Trần: Tôi làm tất cả để bảo vệ cộng đồng mình trong vấn đề di trú

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.