Hôm nay,  

Năm Điều Cần Biết Về Viện Trợ Hoa Kỳ Dành Cho Ukraine

22/12/202300:00:00(Xem: 1465)

ukranine

Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskyy và Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden có cuộc gặp gỡ vào ngày 12 tháng 12 năm 2023. (Nguồn: Chụp lại từ YouTube)

 
Kể từ khi xung đột Nga-Ukraine nổ ra vào ngày 24 tháng 2 năm 2022, chính phủ Hoa Kỳ đã luôn ủng hộ nỗ lực chiến tranh của Ukraine. Chính quyền Biden đã nhiều lần đưa ra các gói viện trợ khẩn cấp cho chính phủ và quân đội Ukraine. Tính đến nay, khoản viện trợ đó đã lên tới 113 tỷ MK.
 
Tuy nhiên, các cuộc thăm dò dư luận cho thấy sự ủng hộ của người Hoa Kỳ dành cho Ukraine đã suy giảm từ trước khi xảy ra vụ việc Hamas tấn công Israel vào ngày 7 tháng 10 năm 2023.
 
Khoa học gia về chính trị Jessica Trisko Darden, tác giả cuốn “Aiding and Abetting: U.S. Foreign Assistance and State Violence,” giải thích những nỗ lực gần đây của Hạ Viện do Đảng Cộng Hòa kiểm soát nhằm trì hoãn viện trợ cho Ukraine phản ánh quan điểm rằng Hoa Kỳ đang chi quá nhiều tiền vào Ukraine mà gây thiệt hại cho các ưu tiên trong nước khác, chẳng hạn như tăng cường an ninh ở biên giới phía nam Hoa Kỳ.
 
1. Tính đến nay, Hoa Kỳ đã viện trợ cho Ukraine bao nhiêu?
 
Cho đến nay, Hoa Kỳ đã chuẩn thuận khoảng 113 tỷ MK viện trợ cho Ukraine thông qua bốn khoản bổ sung khẩn cấp, là một cách yêu cầu các nguồn kinh phí ngoài quy trình ngân sách thông thường. Phần lớn số viện trợ này là dành cho mục đích quân sự.
 
Khoản hỗ trợ quân sự hơn 62.3 tỷ MK bao gồm số số lượng vũ khí trị giá ít nhất 23.5 tỷ MK của Bộ Quốc Phòng. Ngược lại, khoảng 3 tỷ MK được dành cho viện trợ nhân đạo.
 
Theo những người ủng hộ việc tăng cường viện trợ của Hoa Kỳ, phần lớn hỗ trợ quân sự cho Ukraine thực ra cũng là hỗ trợ cho ngành công nghiệp quốc phòng của Hoa Kỳ. Họ cũng cho rằng cuộc chiến ở Ukraine đang phá bớt tài sản quân sự của Nga, và cách tiếp cận hiện nay tính ra rẻ hơn nhiều so với việc đối mặt trực tiếp với Nga.
 
Còn theo những người chỉ trích, số tiền viện trợ quân sự lớn chưa từng mà Hoa Kỳ dành cho Ukraine đang ‘rút cạn’ kho dự trữ quân sự của Hoa Kỳ, và có khả năng làm suy giảm khả năng sẵn sàng ứng chiến của quân đội.
 
Một số người khác thì kêu gọi tăng cường giám sát đối với các khoản viện trợ cho Ukraine, bởi vì nước này có lịch sử tham nhũng trong chính phủ.
 
2. Chính quyền Biden hiện đang đề nghị viện trợ những gì cho Ukraine?
 
Hiện tại, đề nghị được đưa ra trước Hạ Viện bao gồm 105 tỷ MK hỗ trợ an ninh cho Ukraine, Israel, Đài Loan và biên giới phía nam Hoa Kỳ, trong đó có hơn 61 tỷ MK dành cho Ukraine.
 
So với đó, đề nghị hỗ trợ cho hoạt động biên giới của Hoa Kỳ là 6.4 tỷ MK.
 
Gói viện trợ này tách biệt với dự luật phân bổ ngân sách quốc phòng được thông qua ở Thượng Viện ngày 13 tháng 12, và ở Hạ Viện ngày 14 tháng 12; trong đó bao gồm 600 triệu MK viện trợ quân sự cho Ukraine và nguồn kinh phí để thành lập một ban thanh tra đặc biệt chuyên trách việc kiểm soát viện trợ cho Ukraine. Dự luật đó đang chờ chữ ký của Tổng thống Joe Biden.
 
Việc bỏ phiếu về yêu cầu viện trợ đặc biệt ban đầu bị trì hoãn do cựu Chủ tịch Hạ viện Kevin McCarthy bị loại khỏi vị trí Chủ tịch. Nhưng đương kim Chủ tịch Mike Johnson có vẻ như cũng chả mấy mặn mà để thúc đẩy việc biểu quyết, mặc dù Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskyy đã đến Washington, D.C., trong tháng 12 để gặp Tổng thống Joe Biden và các thành viên của Quốc hội để cầu xin viện trợ nhiều hơn.
 
3. Lý do khiến Quốc hội chần chừ chưa quyết là gì?
 
Ban lãnh đạo Đảng Cộng Hòa tại Hạ Viện đã từ chối thông qua dự luật viện trợ khẩn cấp của chính quyền Biden mà không có cam kết bổ sung về việc tăng cường an ninh ở biên giới phía nam Hoa Kỳ.
 
Một số nhà lập pháp vẫn phản đối dự luật chi tiêu khẩn cấp bổ sung và muốn thấy khoản viện trợ cho Ukraine được tích hợp vào quy trình ngân sách thông thường trong năm 2024. Bất kể lý do là gì, khi kỳ nghỉ lễ của Quốc hội đang đến rất gần, có vẻ như tình trạng bế tắc hiện nay sẽ khó mà được giải quyết trước năm 2024.
 
4. Ukraine sẽ làm gì nếu không nhận được viện trợ của Hoa Kỳ?
 
Nếu không nhận được viện trợ từ Hoa Kỳ, Ukraine có thể lựa chọn tìm kiếm sự đóng góp tăng cường từ các quốc gia khác.
Tính đến nay, 46 quốc gia đã cung cấp một số loại viện trợ quân sự cho Ukraine. Những quốc gia này bao gồm Anh, Pháp và Đức, cũng như Estonia, Latvia, Litva, Ba Lan và Bulgaria.
 
Nhật Bản đã đóng góp hơn 7 tỷ MK viện trợ kinh tế trong suốt cuộc chiến của Ukraine. Tính tổng cộng, Liên Minh Châu Âu đã cung cấp phần hỗ trợ tài chánh lớn nhất với gần 80 tỷ MK.
 
Tuy nhiên, không có quốc gia nào có nguồn tài nguyên quân sự sẵn có để sánh kịp mức độ hỗ trợ quân sự mà Quốc hội Hoa Kỳ đang xem xét. Sự trì hoãn dai dẳng trong viện trợ quân sự từ Hoa Kỳ, hoặc việc cắt giảm đáng kể về số tiền được đề nghị, sẽ ảnh hưởng đáng kể đến khả năng chiến đấu của Ukraine trong cuộc chiến.
 
5. Thái độ của các ứng cử viên tổng thống Hoa Kỳ về vấn đề viện trợ Ukraine?
 
Trong khi Biden ủng hộ Ukraine mạnh mẽ, các ứng cử viên tổng thống của Đảng Cộng Hòa đã đưa ra nhiều quan điểm khác nhau về việc viện trợ thêm cho Ukraine.
 
Thí dụ, cựu Đại sứ Hội đồng Liên Hợp Quốc Nikki Haley nhiệt liệt ủng hộ việc Hoa Kỳ viện trợ cho Ukraine, còn cựu Tổng thống Donald Trump và Thống đốc bang Florida Ron DeSantis lại phản đối điều đó.
 
Ngay cả khi cuộc chiến Nga-Ukraine kết thúc trong năm 2024 đi nữa, những tranh luận tại Quốc hội về viện trợ cho Ukraine vẫn sẽ tiếp tục diễn ra, bất kể ai đắc cử Tổng thống. Đó là bởi vì Hoa Kỳ có thể sẽ là một trong những nhà tài trợ chính giúp tái thiết Ukraine, quốc gia vốn đã phải chịu thiệt hại ước tính khoảng 150 tỷ MK do chiến tranh. (VB)

 

Nguồn: “5 things to know about US aid to Ukraine” được đăng trên trang TheConversation.com.

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
"Tự do tư tưởng và tìm kiếm sự thật, cùng với sự cam kết lâu đời của chính phủ trong việc tôn trọng và bảo vệ quyền này, đã giúp các trường đại học đóng góp một cách thiết yếu cho xã hội tự do và cuộc sống lành mạnh, thịnh vượng hơn cho mọi người ở khắp các mọi nơi. Tất cả chúng ta đều có chung lợi ích trong việc bảo vệ sự tự do đó. Như lệ thường, chúng ta tiến bước lúc này với niềm tin rằng việc theo đuổi chân lý can đảm và không bị ràng buộc sẽ giải phóng nhân loại, và với niềm tin vào lời cam kết bền bỉ mà các trường cao đẳng và đại học của Hoa Kỳ đã gìn giữ cho quốc gia và thế giới của chúng ta."
Phải làm gì với một Tổng thống Hoa Kỳ không tôn trọng luật pháp của chính quốc gia mình? Vấn đề này nổi lên sau vụ việc chính quyền Trump phớt lờ phán quyết của tòa án liên bang, vẫn để các chuyến bay trục xuất người Venezuela khởi hành đến El Salvador dù tòa đã ra lệnh đình chỉ toàn bộ các chuyến bay đó. Hành động này cho thấy sự thách thức công khai đối với quyền lực tư pháp, và phản ánh sự thiếu hiểu biết (hoặc cố tình phớt lờ) nguyên tắc tam quyền phân lập, vốn là nền tảng của thể chế Hoa Kỳ. Theo Hiến pháp, một tổng thống không có quyền bác bỏ hay phớt lờ phán quyết của tòa án.
Lệnh hành pháp khi được công bố luôn tạo nhiều dư luận trái chiều. Lệnh càng ảnh hưởng nhiều người thì tranh cãi càng kéo dài. Gần đây trong một buổi họp mặt, một người bạn của tôi thốt tiếng than: “Chẳng hiểu thành viên Quốc hội Mỹ của cả hai đảng bây giờ làm gì mà cứ im lìm để tổng thống muốn ra lệnh gì thì ra”. Người khác thắc mắc, nếu tổng thống dùng lệnh hành pháp để đưa ra những quyết định không đúng luật, hay trái với hiến pháp, thì cơ quan nào sẽ có trách nhiệm can thiệp? Bài viết này không phân tích một lệnh hành pháp cụ thể nào, mà chỉ nhằm giải thích cách vận hành của Executive Order, quy trình thách thức nếu cần, cũng như những giới hạn của một mệnh lệnh do tổng thống ban hành.
Medicaid đang trở thành một trong những mục tiêu đầu tiên của chính quyền Trump trong chiến dịch cắt giảm ngân sách liên bang. Là chương trình bảo hiểm y tế do liên bang và tiểu bang phối hợp thực hiện, Medicaid cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho hơn 72 triệu người dân Hoa Kỳ, bao gồm những người có thu nhập thấp, trẻ em và người tàn tật. Ngoài ra, Medicaid cũng góp phần hỗ trợ chi phí chăm sóc lâu dài cho người cao niên.
Gần đây, nhiều hình ảnh và video lan truyền trên mạng xã hội đã khiến dư luận quốc tế kinh hoàng: hàng loạt sà lan quân sự khổng lồ của TQ – loại phương tiện chuyên dụng cho các chiến dịch đổ bộ từ đất liền ra biển – lần đầu tiên lộ diện. Ngay sau đó, vào ngày 1 tháng 4 năm 2025, Bắc Kinh tiến hành cuộc tập trận quân sự kéo dài hai ngày ở eo biển Đài Loan. Điều này càng làm dấy lên lo ngại: Liệu TQ có đang chuẩn bị một cuộc xâm lược kiểu D-Day vào Đài Loan?
Khi nhìn lại nửa thế kỷ Phật giáo Việt Nam hiện diện trên miền đất hứa, Hoa Kỳ, ta thấy con đường chánh niệm tỉnh thức không khởi nguồn từ một dự tính định sẵn, mà từ sự kết tinh của hoàn cảnh, của tâm nguyện và của những bước chân tìm về cõi an trú giữa bao biến động. Bởi nó như một dòng suối len lỏi qua những biến động của thời cuộc, chảy về một phương trời xa lạ, rồi hòa vào biển lớn. Từ những hạt giống gieo xuống trong lặng lẽ, rồi một ngày trổ hoa giữa lòng những đô thị phương Tây, nơi mà có lúc tưởng chừng như chỉ dành cho lý trí và khoa học, cho tốc độ và tiêu thụ, cho những bộ óc không còn kiên nhẫn với những điều mơ hồ. Nhưng rồi, giữa cái đa đoan của thế giới ấy, những lời dạy về chánh niệm, về thở và cười, về sự trở về với chính mình đã nảy mầm và lan rộng như một cơn mưa đầu hạ, làm dịu đi những khô cằn của tâm hồn.
Kể từ ngày biến cố lịch sử 30/4/75, 50 năm trôi qua, đã có không biết bao nhiêu sách vở nói về cái ngày bi thương đó của dân tộc Việt Nam, nhưng có lẽ không gì trung thực và sống động cho bằng chính những bản tường trình trên báo chí vào đúng thời điểm đó từ những phóng viên chiến trường tận mắt chứng kiến thảm cảnh chưa từng có bao giờ của hàng trăm ngàn người, dân cũng như quân, liều mình xông vào cõi chết để tìm cái sống. Năm 2025, đánh dấu 50 năm biến động lịch sử đó, Việt Báo hân hạnh được đăng tải loạt bài viết của ký giả Đinh Từ Thức ghi lại chi tiết từng ngày, đôi khi từng giờ, những điều xảy ra trong mấy tuần lễ trước và sau ngày 30/4/75 để chúng ta có cơ hội cùng sống lại những giờ khắc bi thảm và kinh hoàng ấy đã xảy ra như thế nào.
Năm Carlton Terry 12 tuổi, hệ thống trường học tại Quận Prince Edward, bang Virginia, bất ngờ đóng cửa đối với tất cả trẻ em người da đen. Nhớ lại năm đầu tiên ấy, ông kể: “Tất cả những gì tôi biết là tôi không được đến trường, và tôi biết lý do tại sao. Tôi nhận ra rằng hệ thống pháp luật được tạo ra không phải để bảo vệ tôi. Tôi nhớ những ngày ngồi nhà, sững sờ trước màn hình TV, xem chương trình Amos ’n’ Andy. Mỗi ngày, tôi đọc báo để xem liệu có gì thay đổi hay không.”
Ngày 3 tháng 4, 2014 là ngày mất của nhà đấu tranh Ngô Văn Toại. Mời đọc lại bài phóng sự SV Ngô Vương Toại bị Việt Cộng bắn tại trường Văn Khoa SG hôm tổ chức đêm nhạc Trịnh Cộng Sơn - Khánh Ly tháng 12, năm 1967, Sài Gòn.
Theo thời gian, từ sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 đến nay, số lượng Tăng, Ni đến định cư ở Mỹ ngày càng đông, theo diện vượt biển và vượt biên tị nạn Cộng Sản (từ 1975 đến 1989), theo Chương Trình Ra Đi Trật Tự (Orderly Departure Program - ODP) và Chiến Dịch Nhân Đạo (The Humanitarian Operation - HO) (từ 1980 đến 1997), hay theo diện hỗ trợ sinh hoạt tôn giáo được các chùa, các tổ chức Phật Giáo ở Mỹ bảo lãnh kể từ đầu những năm đầu thiên niên kỷ thứ 3. Các vị Tăng, Ni này định cư ở Mỹ dù thuộc diện nào thì đều mang theo mình sứ mệnh hoằng dương Chánh Pháp của Đức Phật, duy trì và phát huy truyền thống văn hóa của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam tại xứ người. Đây là động lực chính hình thành các cộng đồng Phật Giáo Việt Nam ở Mỹ trải dài nửa thế kỷ qua.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.