Hôm nay,  

Hệ Thống Miễn Dịch Của Chúng Ta Có Thể Tự Tạo Ra ‘Thuốc Diệt Siêu Vi’

08/12/202300:00:00(Xem: 2993)
 
mien dich
Ngăn chặn vi rút sao chép RNA của chúng là một cách hoạt động của chất diệt siêu vi. (Nguồn: pixabay.com)
 
Thuốc diệt siêu vi (Antiviral drugs) thường được coi là một phát minh của thế kỷ 20. Nhưng một nghiên cứu gần đây đã phát hiện ra một điều bất ngờ trong hệ thống miễn dịch của chúng ta: Nó có thể tự mình tổng hợp các phân tử diệt siêu vi (antiviral) để phản ứng chống lại sự lây nhiễm của vi rút.
 
Nhóm nghiên cứu đã tìm hiểu về một loại protein tạo ra các phân tử diệt siêu vi tự nhiên. Khác xa với phát minh hiện đại của nhân loại, tự nhiên đã tiến hóa các tế bào tiến hóa để tạo ra “loại thuốc” của riêng chúng – biện pháp phòng vệ xa xưa nhất để chống lại virus.
 
Thuốc diệt siêu vi hoạt động như thế nào
 
Vi rút (virus) không có vòng đời độc lập – chúng phụ thuộc hoàn toàn vào các tế bào mà chúng lây nhiễm cung cấp tất cả các ‘khối hợp nhất’ hóa học cần thiết để tự tái tạo. Khi ở trong tế bào, virus sẽ chiếm quyền điều khiển và biến nó thành một nhà máy sản xuất ra hàng trăm virus mới.
 
Các chất diệt siêu vi là các phân tử làm vô hiệu hóa những protein cần thiết cho hoạt động của vi rút bằng cách khai thác những khác biệt cơ bản trong cách sao chép của tế bào và của vi rút.
 
Một điểm khác biệt chính giữa tế bào và hầu hết các loại virus là cách chúng lưu trữ thông tin di truyền. Tất cả các tế bào đều sử dụng DNA để lưu trữ thông tin di truyền của mình. DNA là một phân tử dài, giống như chuỗi, được tạo thành từ bốn khối hợp nhất khác nhau, mỗi khối đại diện cho một “ký tự” khác nhau của mã di truyền. Những khối hợp nhất này được kết nối bằng liên kết hóa học theo kiểu đầu nối đuôi (đầu cái này nối vào đuôi cái kia), để tạo ra chuỗi hàng triệu ký tự. Thứ tự của các ký tự này mô tả mã di truyền thể để tạo ra một tế bào mới.
 
Trong khi đó, nhiều loại virus lưu trữ thông tin di truyền của chúng bằng cách sử dụng RNA. RNA được tạo thành từ một chuỗi gồm bốn ký tự hóa học, giống như DNA, nhưng các ký tự có cấu trúc phân tử hơi khác nhau. RNA là chuỗi đơn, trong khi DNA là chuỗi kép. Bộ gen của virus cũng nhỏ hơn nhiều so với bộ gen của tế bào, thường chỉ có độ dài khoảng vài ngàn ký tự.
 
Khi virus nhân lên, nó tạo ra nhiều bản sao của bộ gen RNA bằng cách sử dụng một loại protein gọi là RNA polymerase. Polymerase bắt đầu ở một đầu của chuỗi RNA hiện có và “đọc” lần lượt từng chuỗi ký tự hóa học, chọn khối hợp nhất thích hợp và thêm nó vào chuỗi RNA đang phát triển. Quá trình này được lặp lại cho đến khi toàn bộ chuỗi ký tự được sao chép để tạo thành chuỗi RNA mới.
 
Các chất diệt siêu vi can thiệp vào quá trình sao chép RNA một cách tinh vi. Cấu trúc ‘đầu nối đuôi’ của chuỗi RNA yêu cầu mỗi ký tự hóa học phải có hai điểm kết nối – ‘đầu’ (head) để kết nối với ký tự trước và ‘đuôi’ (tail) để cho phép thêm ký tự sau vào. Chất diệt siêu vi sẽ bắt chước một trong các ký tự hóa học, nhưng lại không có điểm ‘đuôi.’ Nếu RNA polymerase bị nhầm lẫn giữa ‘thuốc’ với ký tự hóa học và thêm nó vào chuỗi RNA đang phát triển, quá trình sao chép sẽ dừng lại vì không có gì để gắn ký tự tiếp theo vào. Vì vậy, chất diệt siêu vi này còn được gọi là ‘chất ức chế ngắt chuỗi’ (chain-terminating inhibitor).
 
Viperin là nhà sản xuất thuốc diệu siêu vi
 
Trước đây, các nhà nghiên cứu cho rằng các chất diệt siêu vi có tác dụng ngắt chuỗi là sản phẩm ‘tinh hoa’ của nhân loại, được phát triển từ những tiến bộ trong hiểu biết khoa học về sự nhân lên của vi rút. Tuy nhiên, người ta đã phát hiện ra rằng trong tế bào có một loại protein có tên là viperin, chuyên tổng hợp chất diệt siêu vi ngắt chuỗi tự nhiên, và điều này cho thấy một khía cạnh mới của hệ thống miễn dịch.
 
Viperin loại bỏ điểm kết nối ‘đuôi’ khỏi một trong bốn khối hợp nhất RNA của bộ gen virus. Tức là nó chuyển đổi khối hợp nhất thành một loại chất diệt siêu vi chấm dứt chuỗi.
 
Chiến lược này đã được chứng minh là có hiệu quả cao trong điều trị nhiễm virus. Thí dụ: thuốc remdesivir diệt vi rút COVID-19 hoạt động theo cách này. Một RNA polymerase của virus phải ghép hàng ngàn ký tự lại với nhau để sao chép bộ gen của virus, nhưng thuốc diệt siêu vi chỉ cần đánh lừa nó một lần để phá hư quá trình sao chép của nó. Một bộ gen không hoàn chỉnh thiếu các hướng dẫn cần thiết để tạo ra một loại virus mới và trở nên vô dụng.
 
Ngoài ra, dù tế bào cũng có polymerase riêng nhưng chúng không bao giờ sao chép RNA như virus. Dựa vào điều này, các chất diệt siêu vi sẽ hoạt động có chọn lọc, chỉ nhắm mục tiêu vào sự nhân lên của vi rút, giảm hiệu ứng phụ không mong muốn.
 
Hiển nhiên, Viperin không thể bảo vệ hoàn toàn khỏi tất cả các loại virus RNA – nếu không thì chúng ta sẽ chẳng bao giờ bị bịnh trước bất kỳ loại virus RNA nào. Có vẻ như một số RNA polymerase của virus, chẳng hạn như của virus bại liệt, đã tiến hóa để phân biệt các phân tử diệt siêu vi của Viperin để làm giảm tác dụng của chúng. Tuy nhiên, Viperin chỉ là một nhánh của hệ thống miễn dịch, bao gồm các tế bào và protein chuyên biệt bảo vệ chúng ta khỏi bị nhiễm bịnh theo nhiều cách khác.
 
Thuốc diệt siêu vi cổ xưa
 
Các khoa học gia đã phát hiện ra Viperin khoảng 20 năm trước trong khi tìm kiếm những gen nào sẽ hoạt động để phản ứng khi cơ thể bị nhiễm virus. Tuy nhiên, việc tìm ra tác dụng thực sự của Viperin không hề dễ dàng.
 
Chức năng của Viperin đặc biệt khó hiểu, vì nó giống với một nhóm protein cổ xưa gọi là radical SAM enzymes, thường được tìm thấy ở vi khuẩn và nấm mốc. Điều đáng chú ý là, radical SAM enzymes cực kỳ hiếm ở động vật. Chúng sẽ bị vô hiệu hóa ngay lập tức nếu tiếp xúc với không khí, và các nhà nghiên cứu cho rằng chúng có thể chẳng có tác dụng gì ở người. Vẫn chưa rõ làm thế nào mà Viperin lại tránh được tình trạng vô hiệu hóa.
 
Các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra chức năng của Viperin khi nhận thấy gen mã hóa viperin nằm cạnh một gen liên quan đến việc tổng hợp một trong các khối hợp nhất của RNA. Từ quan sát này, họ kiểm tra xem liệu Viperin có ‘nhúng tay’ vào khối hợp nhất RNA này hay không.
 
Sau đó, các nhà nghiên cứu đã xác định được các protein giống Viperin trong tất cả các giới của sự sống, từ vi khuẩn cổ đại đến các loài thực vật và động vật hiện đại. Điều này có nghĩa là Viperin là một loại protein rất cổ xưa, nó đã phát triển từ thuở sơ khai của sự sống, có lẽ là rất lâu trước khi các sinh vật đa bào xuất hiện – bởi vì ngay cả vi khuẩn (bacteria) cũng phải chống lại sự lây nhiễm của virus.
 
Khi các dạng sống phức tạp hơn phát triển, Viperin được giữ lại và tích hợp vào hệ thống miễn dịch phức tạp của động vật hiện đại. Tóm lại, Viperin có thể là công cụ cổ xưa nhất trong hệ thống miễn dịch của chúng ta.
 
Cung Đô biên dịch
Nguồn: “Your immune system makes its own antiviral drug − and it’s likely one of the most ancient” của Neil Marsh, được đăng trên trang TheConversation.com.
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tháng 4 năm 2024, một phụ nữ ở Sacramento, California, Mỹ bị ngộ độc chì nghiêm trọng và tử vong sau khi sử dụng thuốc mỡ trị trĩ của Việt Nam có tên “Cao Bôi Trĩ Cây Thầu Dầu”. Thử nghiệm thuốc mỡ bôi trĩ này cho thấy nó chứa 4% chì (cứ 100 gram thuốc thì có 4 gram chì), đây là lượng rất nguy hiểm. Chì là một chất kim loại nặng độc hại cho cơ thể. Tiếp xúc với bất kỳ lượng chì nào cũng có thể gây hại cho sức khỏe.
Rụng tóc (alopecia) thường xảy ra trên da đầu, nhưng cũng có thể xảy ra ở bất kỳ nơi nào trên cơ thể. Rụng tóc là một tình trạng phổ biến và không phải là vấn đề đáng lo ngại. Ở Úc, khoảng một nửa đàn ông ở độ tuổi 50 thường có dấu hiệu hói đầu, và hơn 1/4 phụ nữ trong cùng độ tuổi cho biết tóc họ bị thưa đi. Thường thì vấn đề này là do di truyền. Nếu thấy mình đang bị rụng tóc và đang lo lắng về điều đó, quý vị nên đi khám hoặc hỏi ý kiến bác sĩ để được chẩn đoán trước khi thử bất kỳ phương pháp điều trị nào. Rất nhiều sản phẩm được quảng cáo là có khả năng đảo ngược tình trạng rụng tóc, nhưng lại có rất ít sản phẩm đã được kiểm nghiệm khoa học về hiệu quả.
Hàm răng của bệnh nhân có vẻ như được chăm sóc khá tốt, nhưng nha sĩ James Mancini, giám đốc lâm sàng của Trung Tâm Nha Khoa Meadville ở Pennsylvania, cảm thấy phần nướu có vấn đề. Tình cờ, Mancini có quen biết với bác sĩ của bệnh nhân đó nên đã liên lạc để chia sẻ sự lo ngại – và rồi họ ‘lần’ ra bệnh thật! Mancini cho biết: “Thực ra, Bob mắc bệnh ung thư bạch cầu (leukemia). Dù ông ấy không thấy mệt mỏi hay có các triệu chứng khác, nhưng vấn đề xuất hiện ở phần răng miệng. Khi bác sĩ của Bob biết được tình trạng, Bob đã được điều trị ngay lập tức.”
Thời nay, nhiều người thường bị đau cổ vai gáy, lại còn kèm theo cả đau đầu. Nỗi đau này có thể gây ra thêm nỗi đau khác, không chỉ về mặt vật lý mà còn về mặt tâm sinh lý. Xét về mặt sinh lý, ngày càng có nhiều nghiên cứu chứng minh rằng những cơn đau ở cổ thường khiến cho người ta bị thêm chứng đau đầu. Một nghiên cứu mới được công bố trên tạp chí The Journal of Headache and Pain là nghiên cứu đầu tiên cung cấp những dấu hiệu khách quan về sự liên quan của cơ bắp với tình trạng đau nhức đầu.
Một nghiên cứu mới cho thấy thiếu ngủ không chỉ ảnh hưởng đến tâm trạng và hiệu suất làm việc trong ngày, mà còn có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh tiểu đường loại 2. Theo nghiên cứu được công bố trên tạp chí JAMA Network Open, so với những người ngủ từ 7 đến 8 tiếng mỗi ngày, những người ngủ ít hơn 6 tiếng/ngày có nguy cơ mắc bệnh tiểu đường type 2 cao hơn khi về già.
Khi nói đến việc giữ cho xương khỏe mạnh, nhiều người sẽ nghĩ ngay đến vitamin D, chất dinh dưỡng giúp cơ thể hấp thụ lượng canxi cần thiết để giúp cho bộ xương chắc khỏe. Nhưng dù rằng vitamin D đúng là một chất dinh dưỡng thiết yếu, trong những năm gần đây, các nhà nghiên cứu đã nhận thấy tầm quan trọng của các loại vitamin khác trong việc chống gãy xương (fractures) và bệnh loãng xương, hay bệnh xương xốp (osteoporosis).
Không thể nhìn thấy bằng mắt thường, không có mùi và cũng chẳng có vị, những lượng nhỏ chì (lead) hiện diện trong các vật dụng mà chúng ta sử dụng hàng ngày, trong nhà chúng ta ở, và cả trong nước chúng ta uống. Thậm chí, chì còn xuất hiện trong các bình nước tái sử dụng, như việc phát hiện ra chì trong đáy ly Stanley. Vụ việc đã làm dấy lên nhiều tranh cãi và khơi dậy sự chú ý của người tiêu dùng đối với một vấn đề đã tồn tại từ rất lâu.
Hôm cuối tháng Hai vừa qua, Tòa Tối cao của bang Alabama phán quyết rằng: “Phôi đông lạnh là trẻ em.” Tuyên án này tuy chỉ có uy lực theo Hiến pháp và luật pháp ở Alabama, tuy nhiên, sự bắt đầu này tạo ra tiền lệ cho tất cả những vụ án vế sau của tất cả các bang khác và kề cả hiến pháp Hoa Kỳ, ảnh hưởng đến thời kỳ cho phép phá thai. Nhiều người và nhiều cơ quan sẽ phải chịu trách nhiệm, sẽ bị trừng phạt nếu làm hỏng phôi thai, như một tội giết trẻ em. Phán quyết của Alabama, được công bố hôm thứ Sáu, bắt nguồn từ hai vụ kiện của ba nhóm cha mẹ đã trải qua thủ tục thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) để sinh con và sau đó chọn đông lạnh số phôi còn lại. Giáo sư Nicole Huberfeld của Trường Luật Đại học Boston cho biết, đó cũng là một quyết định có thể gây ảnh hưởng lan rộng đến việc sử dụng các phương pháp điều trị sinh sản như thụ tinh trong ống nghiệm (IVF).
Thử tưởng tượng rằng chỉ cần uống một viên thuốc là quý vị sẽ tràn trề năng lượng, da dẻ mịn màng, và tim mạch khỏe re? Các viễn cảnh hấp dẫn này vẫy gọi mãnh liệt mỗi khi chúng ta dạo quanh qua các quầy hàng bán các loại thực dược phẩm bổ dưỡng trong hiệu thuốc, từ các loại viên uống dầu cá (fish oil), bột collagen (collagen powder), kẹo bổ sung ma-giê và muôn hình vạn trạng các loại vitamin.
Hơn một thập niên từ sau cái chết bất ngờ của mẹ, Sehrish Sayani mắc chứng rối loạn tâm thần hậu chấn (PTSD). Suốt những năm đó, những cơn hoảng loạn dữ dội nhất đã giảm dần, nhưng các triệu chứng như nghi ngại thái quá (hypervigilance), trở nên đặc biệt nhạy cảm với một số yếu tố và những giấc ngủ chập chờn đã trở nên quen thuộc trong cuộc sống của cô.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.