Hôm nay,  

Tưởng nhớ

06/12/202308:05:00(Xem: 1180)
Truyện

altar

Hôm ấy là ngày mùng một Tết, không khí trang trọng và linh thiêng của ngày đầu năm như rạng rỡ và đầm ấm bao quanh Quảng Hương Già Lam, chùa mang tên Quảng Hương, là tên của một vị tăng đã hy sinh vì đạo pháp năm 1963. Thầy về trùng tu chùa từ đó và chùa mang tên Quảng Hương từ đó, chùa tọa lạc trong hẻm Phật, hẻm số 498 đường Lê Quang Định, quận Gò Vấp.
    Nắng chiều có hơi ngả màu, nhưng cây cảnh xung quanh Già Lam tự vẫn lung linh xuân sắc, mấy gốc cây cổ thụ ngoài đường cái đã được quét vôi trắng như sáng lên trong nắng chiều. Mấy ngày giáp Tết, người dân địa phương, đa phần là Phật tử, đã thu vén cảnh quang quanh chùa, lối vô hẻm, đường đi, thiệt gọn gàng sạch sẽ, có một vài gốc cây, còn thấy chân nhang vài chén cháo cúng vong khô cạn nằm rải rác. Hoa lá vẫn tươi nở, dù là đất nước đã đổi chủ gần một năm.
    Nơi cổng chánh, sát tam quan là những chậu hoa đại đóa nở mãn khai màu vàng tươi, lấp lánh. Bao quanh bệ đá là một thảm hoa mười giờ đủ màu, chen nhau, chi chít mọc đầy nụ. Những ngày này, đúng ra chùa rất vui và rộn rịp khách thập phương và Phật tử quanh vùng đến lễ ríu rít đầu năm. Nhưng lúc này, họ cũng ngại đồn công an gần đó, nên từ 23 tháng chạp, ngày tiễn ông táo về trời, dân quanh vùng đã lai rai rải rác bắt đầu vào lễ Phật sớm. Họ như thay nhau đi từng nhóm lẻ tẻ, vì không còn được quần tụ đông vui trong chánh điện như năm trước.
    Cây lá bao quanh phường 1, vùng Lê Quang Định luôn luôn xanh tươi râm mát, mấy xe bán nước mía ngang đầu đường, không còn dùng, nhưng vẫn được xếp gọn gàng trong một góc phố. Đối diện trường mẫu giáo, là lối vào chùa, đi vào một khoảng lối 200 mét, thuộc khuôn viên tự viện có hai lối rẽ, lối bên trái đưa tới Pháp Quan Âm, lối bên phải có hồ cá, cá khá lớn, bơi chậm chạp như muốn nghe kinh. Bên cạnh hồ cá, còn có hồ cây cảnh, giữa hồ nước là nhiều chậu cây quý tọa lạc trên các bệ đá vuông vức, có nhiều chậu hoa mai tứ quý thấp và như có tự lâu đời.
           
Cây trong chiều cô tịch
Nghe chuông chùa chơi vơi
Mai nở bông nụ nhỏ
Ngủ giữa hồ mây trôi.
 
Phía đối diện, sau tháp Quan Âm, là một vườn cỏ xanh non, đi qua bãi cỏ là tháp Địa Tạng, trong tháp có nhiều tầng, theo thứ tự, ngăn nắp và chỉnh trang các hủ cốt của vô số thân nhân mãn phần của khách thập phương. Quả thế, thân nhân họ đã đưa họ vào đây, hy vọng họ nghe kinh kệ sớm chiều mà siêu thoát.
    Thầy Trí Thủ, ngoài việc trông nom Phật sự, ngài rất chăm lo việc thờ tự trong ngoài ngôi tháp Địa Tạng. Thầy đầy trách nhiệm với những thân nhân đã gởi gấm, hơn nữa, với từ tâm Bồ Đề, lúc nào ngài cũng lưu ý như an vị, và hơn nữa như an ủi những hương linh phảng phất đâu đó xung quanh thầy và xung quanh ngài Địa Tạng.
    Mỗi cuối ngày, sau buổi niệm Phật công phu chiều, ngài thường thong dong thả bộ đi từ chính điện hay từ hồ cá ra tháp thờ vong, vừa đi ngài vừa niệm chú vãng sanh, hình như ông không hề quên một lần nào:
 
Nhớ ai ai có nhớ không
Nhớ không, không nhớ, hoài công mong chờ
Không thơ thẩn, không thờ ơ
Thoát vòng đại mộng sang  bờ bến không
Đời là sắc sắc không không
Trăm năm vẫn một chữ không thường còn. 
 
Chiều mồng một Tết ấy, mới độ năm giờ chiều, nắng đã đổ nghiêng từ trên cao thưa thớt xuống lòng con phố Lê Quang Định, còn vài người khách đi lễ chùa ra về rải rác. Mùi hương vẫn phảng phất theo gió bay bay.
    Xịch tới cổng hểm 498 có một xe cyclo đậu lại, người đạp xe thắng nhẹ và quẹo vô lề đường, bên gốc một cây phượng già cỗi. Người ngồi trên xe là một người có thương tật, ông xuống xe với cây gậy chống trong tay, ông khá lớn tuổi, lối cũng gần 60 hay ngoài. Ông mặc quần đen vải dầy, cũ và một cái áo chemise màu xám. Ông bước xuống xe chậm rãi và đứng chờ. Thì ra ông chờ người chủ xe cyclo, người này trẻ hơn đang đẩy xe lên lề đường. Cố sức mãi cái xe cồng kềnh mới lên cao khỏi vỉa hè, người này trẻ hơn, anh ta đẩy sát xe vô bên cột đèn, rồi lom khom cúi xuống mở một giây xích ràng bánh xe vào trụ ciment.
    – Xong rồi chưa? Mình vô.
    Người lớn tuổi vừa quay nói rất nhẹ với người trẻ tuổi hơn đi cùng, đúng hơn là anh ta chở ông ta tới chùa bằng xe cyclo. Rồi người trẻ tuổi nói rất nhẹ, như không muốn cho ai nghe thấy:
    – Vô trước đi, cứ đi thẳng, em vô sau, nhè nhẹ thôi.
    Anh ta nói nhắc bạn đi nhè nhẹ thôi, nhưng mà, người lớn tuổi hơn, có cố gắng đến mấy cũng để lại âm thang khô cứng, lộc cộc do cái gậy gỗ chống xuống đất. Người tuổi trẻ hơn, chờ ông bạn đi tới một khoảng khá xa, anh mới lầm lũi bước theo sau.
    Cây lá trong sân chùa râm mát, gió đong đưa, mùi khói nhang ngạt ngào làm anh dễ chịu. Và anh luôn luôn dõi mắt về phía người bạn già đi khập khiễng đằng kia, đang tiến rất chậm chạp về chỗ để cốt nơi tháp ngài Địa Tạng. Anh đi và dừng lại, dừng lại một chốc lát rồi lại đi, rất từ từ, anh như muốn giữ khoảng cách với người bạn đằng trước:
    – A Di Đà Phật, đạo hữu tìm ai?
    – Dạ không, mô Phật, tôi không tìm ai cả, chúng tôi đi lễ đầu năm, lễ Phật, có bạn tôi đi trước, đằng kia, gần tới tháp để cốt đó.
    Anh vừa nói vừa chỉ tay.
    – Thưa, đạo hữu đi lễ chùa? Xin mời qua chánh điện lạy Phật, có thầy viện chủ trên đó.
    – Ơ, thưa là, ông bạn tôi đau chân, lên thang không nổi đâu, xin phép chú cho chúng tôi ở dưới này, ở trong vườn chùa, cũng được.
    – A Di Đà Phật, vậy mời hai đạo hữu ra sân trước, tôi sẽ đi thỉnh chuông.
    – Xin cám ơn chú, chú cho phép chúng tôi tự nhiên, chúng tôi đã lạy Phật, giờ xin vào chỗ để cốt… chúng tôi muốn thăm viếng vị chỉ huy cũ của chúng tôi!
    – Xin hai vị cảm phiền giây lát, tôi phải lên thưa với thầy trụ trì, phải thỉnh ý của thầy.
    – Thưa, vậy khoảng bao lâu thì chúng tôi, anh em tôi vô được trong ấy?
    – Xin đạo hữu chờ cho, tôi lên bạch thầy rồi xuống cho đạo hữu hay ngay. Dù gì, thì cũng phải chờ tôi xuống, tôi mở khóa cửa, quí vị mời vô trong tháp được mà.
    Nhưng rồi không thấy chú Quảng Định xuống. Mà thầy viện chủ đã đích thân, thầy nhẹ nhàng đi xuống vườn, vì thầy muốn gặp hai người từ xa đến. Thoạt nhìn họ từ đằng trước lối đi dài hun hút, thầy ngừng bước, thầy bấm tay, thầy đứng chờ. Họ đến trước mặt thầy, thầy nói gì đó, rất ôn tồn, hình như thầy xin phép xem qua giấy tờ tùy thân, họ lắc đầu, không có, sau cùng đưa trình thầy hai tấm thẻ bài lính, hai miếng sắt thiêng liêng mà họ để kín đáo trong áo lót đẫm mồ hôi.
    Thầy lặng lẽ nhìn họ, A Di Đà Phật, thầy gọi chú Quảng Định đi lấy chìa khóa và đưa họ vào bên trong tháp. Thưa, họ là hai người lính cũ, cuối năm, họ muốn được vào thăm cốt và bài vị của tướng Nguyễn Khoa Nam.
    Họ được ở trong đó khá lâu hơn dự định.
    Trời sâm sẩm tối dần.
    Họ, cả hai, ra về lặng lẽ, ra khỏi cổng, không hẹn mà hai người cùng quay lại, chào và đảnh lễ rất thành kính. Mùi khói nhang thoang thoảng lùa theo. Vẫn lùa theo.
    Cũng từ xa đến, có một vạt hò màu nâu chạy lẹ ra như chiếc lá bay, thì ra, vẫn là chú Quảng Định. Chú gọi với để kịp tặng họ hai phần cơm chay của chùa cuối ngày kèm với hai phong bao lì xì.
    Khuya đó, thật khuya, sắp dứt điểm ngày tết, thầy Trí Thủ mới băng ngang vườn cây lên tháp, vẫn bóng dáng mảnh khảnh, nhẹ nhàng, ngài thong dong, leo lên từng bậc thang, ngài bấm nhẹ đèn pin và có ý tìm kiếm, cũng có ý như kiểm tra: “Đây, đây rồi, ổng vẫn an vị đây! “Án ma ni bắt di hồng…”
    Thầy ngần ngừ giây lát, rồi nhất định xoay hình người quá cố vào phía trong tường, cho cẩn mật, kín đáo và “tĩnh lặng cho ông, ông tập thiền đi, như ngài Thần Quang… tổ Huệ Khả vậy!  A Di Đà Phật”.

 

– Chúc Thanh

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ở cái xứ sở u Tây này cũng có quá nhiều tự do, thành ra cuộc sống có lúc thành bất cập, công đoàn ra sức nhiều lần đình công, yêu sách này kia, đòi tăng lương, đòi làm ít thời giờ hơn, đòi nghỉ hưu sớm v.v… nhất là công đoàn CGT vận chuyển công cộng người đi làm việc như métro, RER, tramway, bus…
Ngày 21 tháng 4 năm 1975, Tư Tưởng ghé ngang hậu cứ, dẫn ba thằng em: Bắc Hà, Th/úy Trọng và tui đi nhậu ở quán Thuỷ Tiên, gần Bộ Chỉ Huy Thiết Đoàn ngày xưa, trước khi dời vô Phi trường Vĩnh Long...
Trên đường đến phòng trưng bày tác phẩm nghệ thuật của Gertrude Stein, tôi bước đi với tâm trạng phấn khích của một người sắp gặp Ernest Hemingway. Nắng chiều Paris phản chiếu từ cửa sổ những quán cà phê xuống con đường đá cũ tạo thành bóng râm dài phía trước. Tiếng reo hò chen lẫn tiếng đàn từ mấy quán bar nhỏ nơi góc phố gây nên bầu không khí sôi động dội vào tâm trí tôi...
Tôi bán hàng giải khát trước cổng nhà máy, khách hàng là những công nhân, bộ đội và cán bộ trong nhà máy. Tôi là “mụ” bán hàng “phản động” luôn tơ tưởng đến chuyện vượt biên. “tri kỷ” của tôi có chị Ky buôn bán ở xa cảng miền Tây, nghề mới của chị sau cuộc đổi đời 1975, trước kia chị là nhân viên một ngân hàng quận Gò Vấp. Chị Ky là hàng xóm, hôm nào ghé quán tôi không chỉ để uống ly đá chanh, uống ly cà phê mà cũng là dịp cùng tôi tâm tình than thở cuộc sống dưới thời xã hội chủ nghĩa, mơ ước chuyện vượt biên...
Mạ xếp hạng chuyện học hành của con cái là quan trọng hàng đầu. Với tiệm sách và quán cà phê, Mạ đã quán xuyến, lo cho gia đình có cuộc sống sung túc, thoải mái một thời gian dài...
Nghe tin chú Nghĩa sắp cưới vợ, bà con trong khu phố xôn xao nửa tin nửa ngờ. Chuyện lập gia đình ai trưởng thành chả thế! Ấy vậy mà với chú Nghĩa thì chuyện này hơi lạ. Đến khi chú đem thiệp đi mời hẳn hoi vậy chắc chắn là sự thật rồi không còn nghi ngờ gì nữa!
Từ ngày về hưu non, hai vợ chồng tôi cứ lục lọi hết website này đến website khác để tìm nơi đẹp đi du lịch; sợ rằng sự hào hứng của tuổi trẻ sẽ không còn nữa, nên phải đi hết những chỗ mình ao ước từ hồi nhỏ đã đọc sách mà không có thì giờ và phương tiện để thực hiện...
Cơn mưa nhỏ lướt qua bầu trời từ bình minh cũng đã chấm dứt; một tia nắng vàng lách qua lùm cây sồi chui vào góc chuồng cừu lớn. Những chú cừu đực ngập trong rơm rạ của máng ăn buổi sáng vừa ngẩng đầu về phía tia nắng và kêu be be...
Bây giờ, việc đi về giữa Mỹ và Việt Nam thật dễ dàng. Nhưng vào thập niên 80, 90 người đi kẻ ở tưởng chừng là biệt ly mãi mãi. Bạn đã nói với tôi như thế trong nước mắt. Và với sự ngăn cấm của gia đình, với tuổi trẻ khờ dại nông nổi, họ đã lạc mất nhau. Để rồi suốt phần đời còn lại, nỗi đau vẫn còn là vết thương rưng rức. Tôi xin ghi lại câu chuyện tình của bạn, như là một lời đồng cảm...
Ngạn rời căn nhà đó và xuống đây theo đơn xin đi làm trong hảng thịt bò. Ngày Ngạn đi cũng buồn tẻ ảm đạm như ngày anh rời đất nước. Người vợ và hai đứa con tiễn anh ở bến xe buýt ''Con chó rừng''...
Chiếc ghe vượt biển nhỏ xíu, mỏng mảnh của chúng tôi vậy mà chất lúc nhúc đến hơn 80 thuyền nhân, chẳng khác nào một cái lá lạc loài trên đại dương mênh mông, không biết đâu là bờ bến. Đoàn người rời bỏ quê hương tụm năm tụm ba, rải rác khắp thuyền, co ro trong cái lạnh ngoài khơi xa tít tắp, đầu óc hoang mang với trăm ngàn ý nghĩ...
Hôm ấy, trên facebook Group của nhóm cựu thuyền/ bộ nhân ty nạn Thailand, có xuất hiện bài post của Đức, chụp hình vợ chồng Đức đang tiễn con gái tại sân bay Tân Sơn Nhất đi qua Dallas Hoa Kỳ định cư theo chồng mới cưới. Ôi, chàng Đức chung chuyến tàu của tôi. Nhiều người quen cũ vào để lại những comments chúc mừng, cũng là những người tôi biết mặt biết tên, tôi liền vào tham dự, góp vui...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.