Hôm nay,  
CTA_United Educators_Display_300x250_Vietnamese - Nguoi Viet

Cuộc chiến ở Biển Đông của Việt Nam còn gian nan?

19/11/202211:00:00(Xem: 3751)
Chính luận

9_dotted_line 


Trung Quốc đã lộ rõ tham vọng kiểm soát toàn bộ Biển Đông qua kéo dài thương thuyết thỏa hiệp COC với Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN, the Association of South East Asian Nations). Việc này thể hiện qua lập trường của Bắc Kinh khi bước vào trong vòng thương thuyết thứ hai với ASEAN về Bộ Quy tắc Ứng xử ở Biển Đông / Code of Conduct (COC).

Vòng đàm phán chính thức thứ nhất  giữa Trung Quốc và ASEAN diễn ra năm 2018 với hy vọng đạt được kết quả trong 3 năm nhưng thất bại vì Trung Quốc khăng khăng đòi độc quyền toàn bộ Biển Đông, bao gồm cả hai Quần đào Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Tuy nhiên, sau phán quyết của Tòa Trọng tài Quốc tế ở La Haye, trong phiên xử ngày 12/7/2016, bác yêu sách của Trung Quốc đòi một phần lãnh hải do Phi  Luật Tân kiểm soát ở bãi Cỏ Mây (Second Thomas Shoal)  và Hoàng Nham Nham (Scarborough) thuộc quần đảo Trường Sa, Trung Quốc đã chịu nói chuyện phải trái với ASEAN về COC.

Bây giờ, ASEAN cho hay cuộc đàm phán thứ hai về Văn kiện duy nhất COC với Trung Quốc sẽ tiếp tục.

“CODE OF CONDUCT” LÀ GÌ?

COC là Văn kiện, nếu được thông qua, sẽ có tính ràng buộc pháp lý đối với 10 nước ASEAN và Trung Quốc về cách ứng xử của mỗi quốc gia trong việc duy trì hòa bình và hợp tác ở Biển Đông. Nếu vi phạm, Quốc gia cam kết sẽ bị trừng phạt. Điều này khác với Văn kiện DOC, (Declaration on Conduct of the Parties in the South China Sea, viết tắt là DOC), được các nước ASEAN và Trung Quốc ký kết ngày 4-11-2002 tại Phnôm Pênh, Campuchia, nhân dịp Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 8.

Tuyên bố ứng xử DOC không bắt buộc nước vi phạm bị trừng phạt mà để cho các nước tự nguyện và chịu trách nhiệm về hành động của mình như chứng minh trong Văn kiện. Theo tài liệu chính thức, các bên đã đồng ý những điều sau đây trong DOC:

Điều 1: Các bên tái khẳng định cam kết của mình đối với các mục tiêu và các nguyên tắc của Hiến chương LHQ, Công ước của LHQ về Luật Biển năm 1982, Hiệp ước hữu nghị và hợp tác khu vực Đông Nam Á (TAC), Năm nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình (của Trung Quốc) và những nguyên tắc được thừa nhận phổ biến khác của luật pháp quốc tế được coi là quy tắc căn bản điều chỉnh mối quan hệ giữa Nhà nước với Nhà nước.

 

Điều 2: Các bên cam kết tìm kiếm những cách thức xây dựng lòng tin và sự tín nhiệm lẫn nhau hài hòa với những nguyên tắc nêu trên và trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau.
 

Điều 3: Các bên tái khẳng định sự tôn trọng và cam kết của mình đối với quyền tự do hoạt động hàng hải và bay trên vùng trời biển Đông như đã được quy định bởi các nguyên tắc được thừa nhận phổ biến trong luật pháp quốc tế, kể cả Công ước của LHQ về Luật Biển năm 1982.
 

Điều 4: Các bên liên quan chịu trách nhiệm giải quyết các tranh chấp về lãnh thổ và về quyền thực thi luật pháp bằng các phương tiện hòa bình mà không viện đến sự đe dọa hoặc sử dụng vũ lực, thông qua các cuộc tham vấn thân thiện và những cuộc đàm phán bởi các quốc gia có chủ quyền có liên quan trực tiếp, phù hợp với những nguyên tắc được thừa nhận phổ quát của luật pháp quốc tế, kể cả Công ước của LHQ về Luật Biển năm 1982.
 

Điều 5: Các bên chịu trách nhiệm thực hiện sự kiềm chế trong việc thi hành các hoạt động có thể gây phức tạp hoặc leo thang tranh chấp, ảnh hưởng tới hòa bình và sự ổn định, kiềm chế không tiến hành đưa người đến sinh sống trên những hòn đảo hiện không có người sinh sống, trên các rặng đá ngầm, bãi cát ngầm, đảo nhỏ và những yếu tố khác và phải được xử lý những khác biệt của mình bằng phương pháp có tính xây dựng.

Tuy nhiên Trung Quốc không giữ cam kết của mình mà đã tự ý “Xây dựng và mở rộng diện tích sử dụng trên các đảo hiện có tranh chấp ở Biển Đông. Năm 2014, Trung Quốc là quốc gia đầu tiên tiến hành cải tạo với quy mô lớn các thực thể là bãi đá ngầm đang do nước này chiếm hữu, thuộc quần đảo Trường Sa – khu vực tranh chấp chủ quyền giữa Trung Quốc và các quốc gia khác (Việt Nam, Philippines, Malaysia, Đài Loan và Brunei), thành các đảo nhân tạo với diện tích lớn ngang cấp độ các đảo tự nhiên lớn nhất ở quần đảo Trường Sa.”

Ngoài quần đảo Hoàng Sa mà Trung Quốc chiếm của Việt Nam Cộng Hòa năm 1974, Bắc Kinh đã lần lượt chiếm thêm 7 vị trí ở Biển Đông ngày 14/03/1988 gồm: Đá Châu Viên, Đá Chữ Thập, Cụm đá Ga Ven, Đá Gạc Ma, Đá Tư Nghĩa, Đá Vành Khăn và Đá Xu Bi thuộc Trường Sa. Tất cả những vị trí này đã biến thành các căn cứ quân sự có sân bay, bến cảng và quân lính bảo vệ.

Lý do Trung Quốc có thể tự tung tự tác ở Biển Đông vì Văn kiện DOC không có tính ràng buộc trách nhiệm pháp lý đối với bên vi phạm. Hơn nữa khối ASEAN cũng không đoàn kết trong vai trò đối phó với Trung Quốc vì các nước không có quyền lợi ở Biển Đông không muốn gây xích mích với Trung Quốc gồm, Mã Lai Á, Tân Gia Ba, Kampuchea, Lào, Thái Lan, Miến Điện.

COC-TRUNG QUỐC

Do đó, ASEAN đã cố gắng thúc đẩy hoàn tất Bộ Quy tắc Ứng xử ở Biển Đông COC (Code of Conduct) để có hòa bình lâu dài. Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn chống “tính pháp lý ràng buộc trách nhiệm của các bên trong COC”. Ngược lại, Bắc Kinh muốn “tính tự nguyện” và “lòng tin lẫn nhau” nên được áp dụng giống như DOD trước đây. Đây là lý do cốt lõi tại sao, sau 20 năm thi hành DOD, hai phía vẫn không thể đồng ý một Văn kiện COC thống nhất.

 

Ngoài ra, Trung Quốc cũng chống “quốc tế hóa Biển Đông”, điều mà khối ASEAN rất muốn để được Quốc tế bảo hộ. ASEAN từng đòi hỏi phải có Mỹ, Nga, Nhật, Nam Hàn, Úc và Ấn Độ tham dự để bảo đảm hòa bình. Ngược lại, Trung Quốc lại chỉ muốn thương thuyết với từng nước có tranh chấp ở Biển Đông với Bắc Kinh mà thôi, không đồng ý có sự can dự bên ngoài. Sau nhiều năm giằng co, cuối cùng Trung Quốc đã đồng ý vào tháng 9 năm 2013 chịu “tham vấn COC” rồi sau đó bằng lòng “thảo luân với ASEAN” về COC từ năm 2018.

Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường, vào tháng 11 năm 2018 nói Trung Quốc muốn đạt được thỏa hiệp trong 3 năm nhưng đến nay, năm 2022, lập trường hai bên vẫn cách biệt.

LẬP TRƯỜNG CỦA VIỆT NAM


Theo chuyên gia Tiến sỹ Lê Hồng Hiệp,  nghiên cứu viên cao cấp tại Viện Nghiên cứu Đông Nam Á (ISEAS, Yusof Ishak Institute, Singapore) thì Việt Nam muốn cuộc thương thuyết phải “Áp dụng cho tất cả các thực thể tranh chấp và các vùng biển chồng lấn được xác định theo UNCLOS 1982 ở Biển Đông.” Điều này có nghĩa gồm cả quần đảo Hoàng Sa mà Việt Nam coi đang bị tranh chấp, nhưng Trung Quốc không đồng ý, cho rằng Hoàng Sa đã thuộc về Trung Quốc từ năm 1974, sau khi quân Trung Quốc chiếm từ tay Quân đội Việt Nam Cộng Hòa ở miền Nam.

 

Việt Nam cũng phản đối Trung Quốc dự định thiết lập hệ thống Nhận diện Phòng không / Air Defense Identification Zone (ADIZ) như đã thiết lập ở vùng biển Hoa Đông nhắm vào vùng trời và vùng biển tranh chấp với Nam Hàn và Nhật Bản.

VIỄN ẢNH MÙ MỊT

 

Từ những khác biệt nêu trên, ASEAN và Trung Quốc càng ngày càng xa nhau về một giải pháp cho COC, trong khi Việt Nam, nước bị áp lực nặng nhất trong cuộc tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc, tiếp tục vật lộn với cố gắng bảo vệ chủ quyền lãnh thổ. Bởi vì trong thời gian gần đây, Trung Quốc vẫn gia tăng các hoạt động tuần tra quân sự và tấn công, ngăn chặn các ngư dân Việt Nam đánh bắt ở vùng biển Hoàng Sa và Trường Sa.

 

Bằng chứng này đã được thảo luận tại Hội nghị cấp Ngoại trưởng của ASEAN tại Jakarta, Indonesia, ngày 26/10/ 2022. Theo tin của Bộ Ngoại giao Việt Nam thì: “Tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 38 sáng 26/10, các nhà lãnh đạo ASEAN đã bày tỏ quan ngại về diễn biến tình hình trên Biển Đông, trong đó có các hoạt động đơn phương làm gia tăng căng thẳng, suy giảm lòng tin, huỷ hại môi trường biển.

 

Các lãnh đạo ASEAN cũng tái khẳng định sự cần thiết phải tăng cường xây dựng lòng tin và tin cậy lẫn nhau; kiềm chế và không làm phức tạp tình hình; duy trì hoà bình, ổn định, an ninh, an toàn và tự do hàng hải, hàng không ở Biển Đông. Các nước nhấn mạnh lập trường về việc giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hoà bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, bao gồm Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982.

Hội nghị cũng khẳng định lại tầm quan trọng của việc thực hiện đầy đủ và hiệu quả Tuyên bố về Ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), hoan nghênh việc nối lại đàm phán Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) giữa ASEAN và Trung Quốc.

 

Các nước nhấn mạnh sự cần thiết duy trì môi trường thuận lợi cho đàm phán COC và tiếp tục nỗ lực hướng tới COC hiệu quả, thực chất, phù hợp với luật pháp quốc tế, bao gồm UNCLOS.

“Về phía Việt Nam”, Bộ Ngoại giáo nói tiếp,”Thủ tướng Phạm Minh Chính cho rằng ASEAN cần thể hiện bản lĩnh và vai trò tự chủ trong duy trì hòa bình, an ninh và ổn định trên Biển Đông.

 

Khẳng định kiên trì lập trường nguyên tắc về Biển Đông, Thủ tướng nhấn mạnh các nước cần thúc đẩy mạnh mẽ cam kết tuân thủ luật pháp quốc tế, hành xử trách nhiệm, kiềm chế, không có hành động gây căng thẳng, làm phức tạp tình hình.

Theo Thủ tướng Phạm Minh Chính, các nước cần thúc đẩy sớm hoàn thành COC với nỗ lực cao nhất của các bên, phấn đấu cùng Trung Quốc đạt Bộ quy tắc COC hiệu lực, hiệu quả, phù hợp với luật pháp quốc tế và UNCLOS. UNCLOS chính là khuôn khổ điều chỉnh các hành vi, hoạt động trên biển và đại dương.”

Chạy theo với thái độ “lạc quan dè dặt” của ông Chính, Phát ngôn nhân Bộ này cũng nói với báo chí tại Hà Nội ngày 17/11 (2022) rằng:  “Trong khuôn khổ Hội nghị Cấp cao ASEAN-Trung Quốc lần thứ 25, lãnh đạo các nước ASEAN và Trung Quốc đã trao đổi các biện pháp nhằm tiếp tục thúc đẩy quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện ASEAN-Trung Quốc phát triển bền vững trên nhiều lĩnh vực, đóng góp tích cực và hiệu quả cho hợp tác, hòa bình, ổn định và thịnh vượng của khu vực và thế giới. Tại Hội nghị, hai bên cũng đã thông qua Tuyên bố chung nhân dịp kỷ niệm 20 năm Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), trong đó tái khẳng định ý nghĩa và tầm quan trọng của văn kiện này đối với việc duy trì hòa bình, an ninh, ổn định ở Biển Đông.

Bên cạnh đó, như tôi đã từng thông tin, ASEAN và Trung Quốc đã hoàn tất vòng rà soát thứ nhất và đang tiến hành vòng rà soát thứ hai văn bản đàm phán đơn nhất dự thảo Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC); thể hiện mong muốn của hai bên sớm đạt được một Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông hiệu quả, thực chất, phù hợp với luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, đóng góp vào duy trì hòa bình, an ninh và ổn định ở khu vực, tạo môi trường thuận lợi cho việc giải quyết hòa bình các tranh chấp tại Biển Đông.”


Như vậy rõ ràng, nói chuyện giữa ASEAN và Trung Quốc về COC vẫn giậm chân tại chỗ, nói nhiều hơn hành động để có kết quả thực tiễn.


Tổng thư ký Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) Dato Lim Jock Hoi xác nhận: “Cả ASEAN và Trung Quốc tái khẳng định mong muốn xúc tiến đàm phán và sớm ký kết một COC thực chất và hiệu quả. ASEAN sẽ tiếp tục làm việc cùng Trung Quốc về các biện pháp xây dựng lòng tin và phòng ngừa nhằm củng cố sự tin cậy giữa các bên, tạo điều kiện thuận lợi cho đàm phán COC.” (Tin Bộ Ngoại giao Việt Nam, ngày 19/10/2022)

Bằng chứng bế tắc còn được chứng minh trong Tuyên bố chung giữa Việt Nam và Trung Quốc, sau các cuộc họp giữa Tổng Bí thư CSVN Nguyễn Phú Trọng và Lãnh tụ Trung Hoa, Tập Cận Bình, tại Bắc Kinh từ ngày 30.10 đến ngày 1.11.2022.

 

Một đoạn duy nhất nói về Biển Đông được ghi ở phần cuối của Tuyên bố nói rằng: “Hai bên đồng ý tiếp tục thúc đẩy thực hiện toàn diện, hiệu quả “Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông” (DOC), trên cơ sở hiệp thương, nhất trí, sớm đạt được “Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông” (COC) hiệu quả, có nội dung thực chất, phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 (UNCLOS 1982); kiểm soát tốt bất đồng trên biển, không có hành động làm phức tạp tình hình và mở rộng tranh chấp, duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông và thúc đẩy hợp tác trên biển.”

Thật ra ngôn ngữ này không có gì mới mà chỉ lặp lại những sáo ngữ hai bên thường đưa ra trong các cuộc gặp lãnh đạo hai nước. Sự kiện này cho thấy khi các cuộc đàm phán về Biển Đông vẫn “đóng băng”, và chừng nào Trung Quốc còn khăng khăng nói rằng “toàn bộ biển đảo và vùng nước xung quanh Nam Hải là của Trung Quốc từ thời cổ đại” thì  cuộc chiến bảo vệ chủ quyền của Cộng sản Việt Nam còn gian nan.

– Phạm Trần

(11/022)

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Một tuần sau, sau khi dư luận nổi sóng về phát biểu của thiếu niên Chu Ngọc Quang Vinh (“tôi coi đảng như một thế lực xấu chỉ biết lừa gạt dân”) tạm lắng – hôm 7 tháng 9 vừa qua – nhà văn Phạm Đình Trọng kết luận: “Sự việc cho thấy người dân, nhất là thế hệ trẻ đã có nhận thức sâu sắc về pháp luật, có ý thức về sự có mặt của cá nhân trong cuộc đời, trong xã hội”.
Nội dung phát biểu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm ngày 27/08/2024 về đường lối khóa đảng XIV cho thấy ông không dám đi ra khỏi quỹ đạo một người Cộng sản bảo thủ để được tồn tại...
Kamala nhắc lại Donald Trump đã cảm ơn Tổng Thống Tập Cận Bình về những gì ông ta đã làm trong thời gian đại dịch COVID. Bà nhớ cả nội dung Trump đã viết trên Twitter: “Thank you, President Xi” và đọc lại cho chục triệu người dân Mỹ đang xem màn hình. “Khi chúng ta biết rằng Tập Cận Bình phải chịu trách nhiệm vì không cung cấp và cung cấp không đầy đủ cho chúng ta sự minh bạch về nguồn gốc của COVID.” Kamala nhắc lại cả việc Donald Trump đã mời Taliban đến David Camp, “là một nơi có ý nghĩa lịch sử đối với chúng ta, với tư cách là những người Mỹ, một nơi mà chúng ta tôn vinh tầm quan trọng của ngoại giao Hoa Kỳ, nơi chúng ta mời và tiếp đón các nhà lãnh đạo thế giới được kính trọng. Và cựu tổng thống này với tư cách là tổng thống đã mời họ đến David Camp vì ông ta, một lần nữa, không biết tầm quan trọng và trách nhiệm của tổng thống Hoa Kỳ. Và điều này quay trở lại vấn đề ông ta đã liên tục hạ thấp và coi thường các quân nhân của chúng ta, những người lính đã hy sinh...
Từ ngày nước Mỹ lập quốc, chưa bao giờ nụ cười của một ứng cử viên tổng thống lại bị đối thủ mang ra mổ xẻ, tấn công với những lời lẽ không phù hợp với tư cách một người tranh cử vị trí lãnh đạo quốc gia. Nhưng ngược lại, cũng chưa bao giờ nụ cười của một ứng cử viên tổng thống lại trở thành niềm hy vọng cho một đất nước đang đối đầu với mối nguy hiểm “duy nhất suốt 248 năm” (theo lời cựu Phó Tổng Thống Dick Chenny.) Đó là nụ cười của Kamala Harris – Một nụ cười đang ngày càng thay hình đổi dạng cuộc tranh cử tổng thống kinh điển của nước Mỹ.
Cựu Tổng Thống Donald Trump đã trình bầy kế hoạch kinh tế của ông tại Economic Club of New York trước đám đông các kinh tế gia, lãnh đạo doanh nghiệp và nhà báo vào 5-9-2024 vừa qua. Buổi nói chuyện này nằm trong chiến dịch tranh cử. Kế hoạch kinh tế trong nhiệm kỳ 2 nếu ông thắng cử bao gồm nhiều chính sách mà ông đã thi hành trong bốn năm đầu cầm quyền. Ông tuyên bố sẽ loại bỏ nhiều chương trình của chính quyền Biden. Ứng cử viên tổng thống của Cộng Hòa quảng cáo chương trình của ông với thuế nội địa thấp, thuế nhập cảng cao chưa từng thấy, giảm bớt luật lệ, và kinh tế phát triển mạnh. Nhưng nhiều chuyên viên đã nghi ngờ giá trị của chương trình kinh tế này. Nhiều người đã lên tiếng chỉ trích đề xuất kinh tế của Trump như chúng ta sẽ thấy trong những phần dưới đây của bài báo này.
Cuộc bầu cử tổng thống Mỹ vào tháng 11 sắp tới không chỉ định hình tương lai chính trị của quốc gia trong vài năm tới mà còn đặt ra những câu hỏi căn bản về bản sắc và tương lai của chính nước Mỹ. Trong khi kết quả bầu cử sẽ quyết định nhiều vấn đề quan trọng, những xung đột sâu sắc về bản chất của nước Mỹ đã được phản ảnh rõ nét qua đường lối, chính sách nêu ra tại hai đại hội Đảng Cộng Hòa và Dân Chủ vừa qua.
Tôi đã xem qua cả trăm bài viết với với nội dung và ngôn từ (“đầu đường xó chợ”) tương tự nhưng chưa bao giờ bận tâm hay phiền hà gì sất. Phần lớn, nếu không muốn nói là tất cả, các bạn DLV đều không quen cầm bút nên viết lách hơi bị khó khăn, và vô cùng khó đọc. Họ hoàn toàn không có khái niệm chi về câu cú và văn phạm cả nên hành văn lủng củng, vụng về, dài dòng, lan man trích dẫn đủ thứ nghị quyết (vớ vẩn) để chứng minh là đường lối chính sách của Đảng và Nhà Nước luôn luôn đúng đắn. Họ cũng sẵn sàng thóa mạ bất cứ ai không “nhận thức được sự đúng đắn” này, chứ không thể lập luận hay phản bác bất cứ một cáo buộc nào ráo trọi.
Ngày 20/7/1969, hai phi hành gia Neil Armstrong và Edwin Aldrin đi vào lịch sử như là hai người đầu tiên đặt chân lên Mặt Trăng thế nhưng sự kiện này bị một số nhà “lý thuyết âm mưu” lên tiếng phủ nhận. Căn cứ vào những điểm “khả nghi” trong tấm hình chụp Armstrong đứng cạnh lá cờ cắm trên Mặt Trăng, họ quả quyết rằng tất cả chỉ là chuyện dàn dựng và bức hình này chỉ được chụp tại một sa mạc ở Nevada. Nhưng bằng chứng của vụ đổ bộ ấy đâu chỉ duy nhất một tấm hình? Tàu Appollo 11 phóng từ mũi Kennedy trước con mắt hàng chục ngàn người và hàng trăm triệu người qua ống kính truyền hình. Hàng trăm ngàn thước phim quay được và chụp được khi tàu Appollo vờn trên quỹ đạo quanh mặt trăng, cảnh tàu con rời tàu mẹ để đổ bộ, cảnh các phi hành gia đi bộ và cả những túi đất đá mang về từ Mặt Trăng v.v. Chúng ta thấy gì ở đây? Những bằng chứng xác thực thì nặng như núi nhưng, khi đã cố tình không tin, đã cố vạch ra những âm mưu thì chỉ cần mấy điểm khả nghi nhẹ tựa lông hồng.
Một bài bình luận của báo Chính phủ CSVN hôm 2/9/2024 viết: “Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, đến nay chúng ta ngày càng có cơ sở vững chắc để khẳng định sự thật chúng ta đã trở thành nước tự do độc lập, người dân ngày càng ấm no hạnh phúc…” Những lời tự khoe nhân dịp kỷ niệm 79 năm (1945-2024) được gọi là “Tuyên ngôn độc lập” của ông Hồ Chí Minh chỉ nói được một phần sự thật, đó là Việt Nam đã có độc lập. Nhưng “tự do” và “ấm no hạnh phúc” vẫn còn xa vời. Bằng chứng là mọi thứ ở Việt Nam đều do đảng kiểm soát và chỉ đạo nên chính sách “xin cho” là nhất quán trong mọi lĩnh vực...
Năm 2012 Tập Cận Bình được bầu làm Tổng Bí Thư Trung Ương Đảng; năm 2013 trở thành Chủ Tịch Nước; đến năm 2018 tư tưởng Tập Cận Bình được chính thức mang vào Hiến Pháp với tên gọi “Tư tưởng Tập Cận Bình về chủ nghĩa xã hội với đặc sắc Trung Quốc trong thời đại mới”. Tập Cận Bình đem lại nhiều thay đổi sâu sắc trong xã hội Trung Quốc, mối bang giao Mỹ-Trung và nền trật tự thế giới...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.