Hôm nay,  

Cuộc chiến ở Biển Đông của Việt Nam còn gian nan?

19/11/202211:00:00(Xem: 3245)
Chính luận

9_dotted_line 


Trung Quốc đã lộ rõ tham vọng kiểm soát toàn bộ Biển Đông qua kéo dài thương thuyết thỏa hiệp COC với Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN, the Association of South East Asian Nations). Việc này thể hiện qua lập trường của Bắc Kinh khi bước vào trong vòng thương thuyết thứ hai với ASEAN về Bộ Quy tắc Ứng xử ở Biển Đông / Code of Conduct (COC).

Vòng đàm phán chính thức thứ nhất  giữa Trung Quốc và ASEAN diễn ra năm 2018 với hy vọng đạt được kết quả trong 3 năm nhưng thất bại vì Trung Quốc khăng khăng đòi độc quyền toàn bộ Biển Đông, bao gồm cả hai Quần đào Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Tuy nhiên, sau phán quyết của Tòa Trọng tài Quốc tế ở La Haye, trong phiên xử ngày 12/7/2016, bác yêu sách của Trung Quốc đòi một phần lãnh hải do Phi  Luật Tân kiểm soát ở bãi Cỏ Mây (Second Thomas Shoal)  và Hoàng Nham Nham (Scarborough) thuộc quần đảo Trường Sa, Trung Quốc đã chịu nói chuyện phải trái với ASEAN về COC.

Bây giờ, ASEAN cho hay cuộc đàm phán thứ hai về Văn kiện duy nhất COC với Trung Quốc sẽ tiếp tục.

“CODE OF CONDUCT” LÀ GÌ?

COC là Văn kiện, nếu được thông qua, sẽ có tính ràng buộc pháp lý đối với 10 nước ASEAN và Trung Quốc về cách ứng xử của mỗi quốc gia trong việc duy trì hòa bình và hợp tác ở Biển Đông. Nếu vi phạm, Quốc gia cam kết sẽ bị trừng phạt. Điều này khác với Văn kiện DOC, (Declaration on Conduct of the Parties in the South China Sea, viết tắt là DOC), được các nước ASEAN và Trung Quốc ký kết ngày 4-11-2002 tại Phnôm Pênh, Campuchia, nhân dịp Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 8.

Tuyên bố ứng xử DOC không bắt buộc nước vi phạm bị trừng phạt mà để cho các nước tự nguyện và chịu trách nhiệm về hành động của mình như chứng minh trong Văn kiện. Theo tài liệu chính thức, các bên đã đồng ý những điều sau đây trong DOC:

Điều 1: Các bên tái khẳng định cam kết của mình đối với các mục tiêu và các nguyên tắc của Hiến chương LHQ, Công ước của LHQ về Luật Biển năm 1982, Hiệp ước hữu nghị và hợp tác khu vực Đông Nam Á (TAC), Năm nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình (của Trung Quốc) và những nguyên tắc được thừa nhận phổ biến khác của luật pháp quốc tế được coi là quy tắc căn bản điều chỉnh mối quan hệ giữa Nhà nước với Nhà nước.

 

Điều 2: Các bên cam kết tìm kiếm những cách thức xây dựng lòng tin và sự tín nhiệm lẫn nhau hài hòa với những nguyên tắc nêu trên và trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau.
 

Điều 3: Các bên tái khẳng định sự tôn trọng và cam kết của mình đối với quyền tự do hoạt động hàng hải và bay trên vùng trời biển Đông như đã được quy định bởi các nguyên tắc được thừa nhận phổ biến trong luật pháp quốc tế, kể cả Công ước của LHQ về Luật Biển năm 1982.
 

Điều 4: Các bên liên quan chịu trách nhiệm giải quyết các tranh chấp về lãnh thổ và về quyền thực thi luật pháp bằng các phương tiện hòa bình mà không viện đến sự đe dọa hoặc sử dụng vũ lực, thông qua các cuộc tham vấn thân thiện và những cuộc đàm phán bởi các quốc gia có chủ quyền có liên quan trực tiếp, phù hợp với những nguyên tắc được thừa nhận phổ quát của luật pháp quốc tế, kể cả Công ước của LHQ về Luật Biển năm 1982.
 

Điều 5: Các bên chịu trách nhiệm thực hiện sự kiềm chế trong việc thi hành các hoạt động có thể gây phức tạp hoặc leo thang tranh chấp, ảnh hưởng tới hòa bình và sự ổn định, kiềm chế không tiến hành đưa người đến sinh sống trên những hòn đảo hiện không có người sinh sống, trên các rặng đá ngầm, bãi cát ngầm, đảo nhỏ và những yếu tố khác và phải được xử lý những khác biệt của mình bằng phương pháp có tính xây dựng.

Tuy nhiên Trung Quốc không giữ cam kết của mình mà đã tự ý “Xây dựng và mở rộng diện tích sử dụng trên các đảo hiện có tranh chấp ở Biển Đông. Năm 2014, Trung Quốc là quốc gia đầu tiên tiến hành cải tạo với quy mô lớn các thực thể là bãi đá ngầm đang do nước này chiếm hữu, thuộc quần đảo Trường Sa – khu vực tranh chấp chủ quyền giữa Trung Quốc và các quốc gia khác (Việt Nam, Philippines, Malaysia, Đài Loan và Brunei), thành các đảo nhân tạo với diện tích lớn ngang cấp độ các đảo tự nhiên lớn nhất ở quần đảo Trường Sa.”

Ngoài quần đảo Hoàng Sa mà Trung Quốc chiếm của Việt Nam Cộng Hòa năm 1974, Bắc Kinh đã lần lượt chiếm thêm 7 vị trí ở Biển Đông ngày 14/03/1988 gồm: Đá Châu Viên, Đá Chữ Thập, Cụm đá Ga Ven, Đá Gạc Ma, Đá Tư Nghĩa, Đá Vành Khăn và Đá Xu Bi thuộc Trường Sa. Tất cả những vị trí này đã biến thành các căn cứ quân sự có sân bay, bến cảng và quân lính bảo vệ.

Lý do Trung Quốc có thể tự tung tự tác ở Biển Đông vì Văn kiện DOC không có tính ràng buộc trách nhiệm pháp lý đối với bên vi phạm. Hơn nữa khối ASEAN cũng không đoàn kết trong vai trò đối phó với Trung Quốc vì các nước không có quyền lợi ở Biển Đông không muốn gây xích mích với Trung Quốc gồm, Mã Lai Á, Tân Gia Ba, Kampuchea, Lào, Thái Lan, Miến Điện.

COC-TRUNG QUỐC

Do đó, ASEAN đã cố gắng thúc đẩy hoàn tất Bộ Quy tắc Ứng xử ở Biển Đông COC (Code of Conduct) để có hòa bình lâu dài. Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn chống “tính pháp lý ràng buộc trách nhiệm của các bên trong COC”. Ngược lại, Bắc Kinh muốn “tính tự nguyện” và “lòng tin lẫn nhau” nên được áp dụng giống như DOD trước đây. Đây là lý do cốt lõi tại sao, sau 20 năm thi hành DOD, hai phía vẫn không thể đồng ý một Văn kiện COC thống nhất.

 

Ngoài ra, Trung Quốc cũng chống “quốc tế hóa Biển Đông”, điều mà khối ASEAN rất muốn để được Quốc tế bảo hộ. ASEAN từng đòi hỏi phải có Mỹ, Nga, Nhật, Nam Hàn, Úc và Ấn Độ tham dự để bảo đảm hòa bình. Ngược lại, Trung Quốc lại chỉ muốn thương thuyết với từng nước có tranh chấp ở Biển Đông với Bắc Kinh mà thôi, không đồng ý có sự can dự bên ngoài. Sau nhiều năm giằng co, cuối cùng Trung Quốc đã đồng ý vào tháng 9 năm 2013 chịu “tham vấn COC” rồi sau đó bằng lòng “thảo luân với ASEAN” về COC từ năm 2018.

Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường, vào tháng 11 năm 2018 nói Trung Quốc muốn đạt được thỏa hiệp trong 3 năm nhưng đến nay, năm 2022, lập trường hai bên vẫn cách biệt.

LẬP TRƯỜNG CỦA VIỆT NAM


Theo chuyên gia Tiến sỹ Lê Hồng Hiệp,  nghiên cứu viên cao cấp tại Viện Nghiên cứu Đông Nam Á (ISEAS, Yusof Ishak Institute, Singapore) thì Việt Nam muốn cuộc thương thuyết phải “Áp dụng cho tất cả các thực thể tranh chấp và các vùng biển chồng lấn được xác định theo UNCLOS 1982 ở Biển Đông.” Điều này có nghĩa gồm cả quần đảo Hoàng Sa mà Việt Nam coi đang bị tranh chấp, nhưng Trung Quốc không đồng ý, cho rằng Hoàng Sa đã thuộc về Trung Quốc từ năm 1974, sau khi quân Trung Quốc chiếm từ tay Quân đội Việt Nam Cộng Hòa ở miền Nam.

 

Việt Nam cũng phản đối Trung Quốc dự định thiết lập hệ thống Nhận diện Phòng không / Air Defense Identification Zone (ADIZ) như đã thiết lập ở vùng biển Hoa Đông nhắm vào vùng trời và vùng biển tranh chấp với Nam Hàn và Nhật Bản.

VIỄN ẢNH MÙ MỊT

 

Từ những khác biệt nêu trên, ASEAN và Trung Quốc càng ngày càng xa nhau về một giải pháp cho COC, trong khi Việt Nam, nước bị áp lực nặng nhất trong cuộc tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc, tiếp tục vật lộn với cố gắng bảo vệ chủ quyền lãnh thổ. Bởi vì trong thời gian gần đây, Trung Quốc vẫn gia tăng các hoạt động tuần tra quân sự và tấn công, ngăn chặn các ngư dân Việt Nam đánh bắt ở vùng biển Hoàng Sa và Trường Sa.

 

Bằng chứng này đã được thảo luận tại Hội nghị cấp Ngoại trưởng của ASEAN tại Jakarta, Indonesia, ngày 26/10/ 2022. Theo tin của Bộ Ngoại giao Việt Nam thì: “Tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 38 sáng 26/10, các nhà lãnh đạo ASEAN đã bày tỏ quan ngại về diễn biến tình hình trên Biển Đông, trong đó có các hoạt động đơn phương làm gia tăng căng thẳng, suy giảm lòng tin, huỷ hại môi trường biển.

 

Các lãnh đạo ASEAN cũng tái khẳng định sự cần thiết phải tăng cường xây dựng lòng tin và tin cậy lẫn nhau; kiềm chế và không làm phức tạp tình hình; duy trì hoà bình, ổn định, an ninh, an toàn và tự do hàng hải, hàng không ở Biển Đông. Các nước nhấn mạnh lập trường về việc giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hoà bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, bao gồm Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982.

Hội nghị cũng khẳng định lại tầm quan trọng của việc thực hiện đầy đủ và hiệu quả Tuyên bố về Ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), hoan nghênh việc nối lại đàm phán Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) giữa ASEAN và Trung Quốc.

 

Các nước nhấn mạnh sự cần thiết duy trì môi trường thuận lợi cho đàm phán COC và tiếp tục nỗ lực hướng tới COC hiệu quả, thực chất, phù hợp với luật pháp quốc tế, bao gồm UNCLOS.

“Về phía Việt Nam”, Bộ Ngoại giáo nói tiếp,”Thủ tướng Phạm Minh Chính cho rằng ASEAN cần thể hiện bản lĩnh và vai trò tự chủ trong duy trì hòa bình, an ninh và ổn định trên Biển Đông.

 

Khẳng định kiên trì lập trường nguyên tắc về Biển Đông, Thủ tướng nhấn mạnh các nước cần thúc đẩy mạnh mẽ cam kết tuân thủ luật pháp quốc tế, hành xử trách nhiệm, kiềm chế, không có hành động gây căng thẳng, làm phức tạp tình hình.

Theo Thủ tướng Phạm Minh Chính, các nước cần thúc đẩy sớm hoàn thành COC với nỗ lực cao nhất của các bên, phấn đấu cùng Trung Quốc đạt Bộ quy tắc COC hiệu lực, hiệu quả, phù hợp với luật pháp quốc tế và UNCLOS. UNCLOS chính là khuôn khổ điều chỉnh các hành vi, hoạt động trên biển và đại dương.”

Chạy theo với thái độ “lạc quan dè dặt” của ông Chính, Phát ngôn nhân Bộ này cũng nói với báo chí tại Hà Nội ngày 17/11 (2022) rằng:  “Trong khuôn khổ Hội nghị Cấp cao ASEAN-Trung Quốc lần thứ 25, lãnh đạo các nước ASEAN và Trung Quốc đã trao đổi các biện pháp nhằm tiếp tục thúc đẩy quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện ASEAN-Trung Quốc phát triển bền vững trên nhiều lĩnh vực, đóng góp tích cực và hiệu quả cho hợp tác, hòa bình, ổn định và thịnh vượng của khu vực và thế giới. Tại Hội nghị, hai bên cũng đã thông qua Tuyên bố chung nhân dịp kỷ niệm 20 năm Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), trong đó tái khẳng định ý nghĩa và tầm quan trọng của văn kiện này đối với việc duy trì hòa bình, an ninh, ổn định ở Biển Đông.

Bên cạnh đó, như tôi đã từng thông tin, ASEAN và Trung Quốc đã hoàn tất vòng rà soát thứ nhất và đang tiến hành vòng rà soát thứ hai văn bản đàm phán đơn nhất dự thảo Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC); thể hiện mong muốn của hai bên sớm đạt được một Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông hiệu quả, thực chất, phù hợp với luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, đóng góp vào duy trì hòa bình, an ninh và ổn định ở khu vực, tạo môi trường thuận lợi cho việc giải quyết hòa bình các tranh chấp tại Biển Đông.”


Như vậy rõ ràng, nói chuyện giữa ASEAN và Trung Quốc về COC vẫn giậm chân tại chỗ, nói nhiều hơn hành động để có kết quả thực tiễn.


Tổng thư ký Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) Dato Lim Jock Hoi xác nhận: “Cả ASEAN và Trung Quốc tái khẳng định mong muốn xúc tiến đàm phán và sớm ký kết một COC thực chất và hiệu quả. ASEAN sẽ tiếp tục làm việc cùng Trung Quốc về các biện pháp xây dựng lòng tin và phòng ngừa nhằm củng cố sự tin cậy giữa các bên, tạo điều kiện thuận lợi cho đàm phán COC.” (Tin Bộ Ngoại giao Việt Nam, ngày 19/10/2022)

Bằng chứng bế tắc còn được chứng minh trong Tuyên bố chung giữa Việt Nam và Trung Quốc, sau các cuộc họp giữa Tổng Bí thư CSVN Nguyễn Phú Trọng và Lãnh tụ Trung Hoa, Tập Cận Bình, tại Bắc Kinh từ ngày 30.10 đến ngày 1.11.2022.

 

Một đoạn duy nhất nói về Biển Đông được ghi ở phần cuối của Tuyên bố nói rằng: “Hai bên đồng ý tiếp tục thúc đẩy thực hiện toàn diện, hiệu quả “Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông” (DOC), trên cơ sở hiệp thương, nhất trí, sớm đạt được “Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông” (COC) hiệu quả, có nội dung thực chất, phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 (UNCLOS 1982); kiểm soát tốt bất đồng trên biển, không có hành động làm phức tạp tình hình và mở rộng tranh chấp, duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông và thúc đẩy hợp tác trên biển.”

Thật ra ngôn ngữ này không có gì mới mà chỉ lặp lại những sáo ngữ hai bên thường đưa ra trong các cuộc gặp lãnh đạo hai nước. Sự kiện này cho thấy khi các cuộc đàm phán về Biển Đông vẫn “đóng băng”, và chừng nào Trung Quốc còn khăng khăng nói rằng “toàn bộ biển đảo và vùng nước xung quanh Nam Hải là của Trung Quốc từ thời cổ đại” thì  cuộc chiến bảo vệ chủ quyền của Cộng sản Việt Nam còn gian nan.

– Phạm Trần

(11/022)

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
Càng gần các Hội nghị Trung ương bàn về vấn đề Nhân sự khóa đảng XIV 2026-2031, nội bộ đảng CSVN đã lộ ra vấn đề đảng viên tiếp tay tuyên truyền chống đảng. Ngoài ra còn có hiện tượng đảng viên, kể cả cấp lãnh đạo chủ chốt đã làm ngơ, quay mặt với những chống phá Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh...
Hí viện Crocus City Hall, cách Kremlin 20 km, hôm 22 tháng O3/2024, đang có buổi trình diển nhạc rock, bị tấn công bằng súng và bom làm chết 143 người tham dự và nhiều người bị thương cho thấy hệ thống an ninh của Poutine bất lực. Trước khi khủng bố xảy ra, tình báo Mỹ đã thông báo nhưng Poutine không tin, trái lại, còn cho là Mỹ kiếm chuyện khiêu khích...
Khi Việt Nam nỗ lực thích ứng với môi trường quốc tế ngày càng cạnh tranh hơn, giới lãnh đạo đất nước đã tự hào về “chính sách ngoại cây giao tre” đa chiều của mình. Được Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), thúc đẩy từ giữa thập niên 2010, ý tưởng là bằng cách cân bằng mối quan hệ của Việt Nam với các cường quốc – không đứng về bên nào, tự chủ và thể hiện sự linh hoạt – nó có thể duy trì sự trung gian và lợi ích của mình, đồng thời tận dụng các cơ hội kinh tế do tình trạng cạnh tranh của các đại cường tạo ra
Cộng sản Việt Nam khoe có tự do tôn giáo ở Việt Nam, nhưng Hoa Kỳ và Thế giới nói “rất hạn chế”, tùy nơi và từng trường hợp. Tình trạng này đã giữ nguyên như thế trong những báo cáo trước đây của cả đôi bên. Nhưng tại sao Hoa Kỳ vẫn liệt Việt Nam vào danh sách phải “theo dõi đặc biệt”...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.